Phát triển chuỗi giá trị toàn cầu trong nền kinh tế hậu COVID-19

Thị trường
03:32 PM 30/09/2020

Việt Nam được quốc tế xem là câu chuyện thành công của thế giới, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở tốp đầu thế giới trong suốt thập niên qua, theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB).

Việt Nam đã tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu, hoạt động thương mại hội nhập ngày càng sâu rộng với các đối tác chủ yếu ở Bắc Mỹ, Đông Bắc Á và châu Âu. Tài sản của người dân đã tăng theo thời gian. World Bank ước tính tầng lớp "người tiêu dùng", chi tiêu từ 5,50 đô la trở lên mỗi người mỗi ngày, đã tăng từ khoảng 49% trong năm 2010 lên hơn 70% vào năm 2016. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019.

Phát triển chuỗi giá trị toàn cầu trong nền kinh tế hậu COVID-19 - Ảnh 1.

Ảnh minh họa, nguồn Internet.

Đánh giá tình hình

Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây gián đoạn chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đã tác động trực tiếp đến các ngành xuất, nhập khẩu, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú, ăn uống, y tế, giáo dục, lao động, việc làm; nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể, tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô...; GDP quý I/2020 chỉ tăng 3,82%, là mức thấp nhất trong 10 năm gần đây; ảnh hưởng mạnh đến tâm lý và đời sống nhân dân.

Ngay khi có dịch bệnh bùng phát, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, cùng với sự đồng lòng, đoàn kết của toàn dân, toàn quân, công tác phòng, chống dịch đã đạt kết quả tốt, Việt Nam đã đẩy lùi và kiểm soát được dịch bệnh. Đồng thời, đã có những chính sách kịp thời để từng bước hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn của đại dịch COVID-19; các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội đang được khôi phục; tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo của Chính phủ.

Tuy nhiên, dịch bệnh COVID-19 trên thế giới còn diễn biến phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực của dịch bệnh đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội còn tiếp tục kéo dài, chưa thể đánh giá hết. Tình hình đó, đòi hỏi chúng ta vừa phải tập trung ưu tiên phòng, chống dịch, đồng thời cần có các chính sách, giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm giảm thiểu tác động của dịch bệnh, vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ để sớm phục hồi và đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội.

Phát triển chuỗi giá trị toàn cầu như thế nào?

Theo lý thuyết thương mại truyền thống, hướng và độ lớn của dòng chảy sản phẩm chủ yếu được xác định bởi lợi thế so sánh của các quốc gia thương mại. Những lợi thế so sánh này phụ thuộc vào sự ưu đãi của các yếu tố sản xuất: lao động, vốn (bao gồm cả vốn nhân lực) và đất đai (hoặc tài nguyên thiên nhiên). Lực lượng tích hợp các yếu tố ưu đãi khác nhau của các quốc gia khác nhau - đặc biệt là vốn và công nghệ từ các nền kinh tế tiên tiến và lao động giá rẻ từ các nước đang phát triển - thúc đẩy sự phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu (GVC).

COVID-19 có thể sẽ thúc đẩy quá trình tiến tới "chuỗi giá trị ngang hàng" giữa các quốc gia có các thỏa thuận thể chế tương tự. Ngoài các yếu tố sản xuất truyền thống, chất lượng của thể chế trong nước có thể trở thành một yếu tố quan trọng quyết định đến lợi thế so sánh của một quốc gia. Khái niệm các sản phẩm "cần nhiều hợp đồng", có chuỗi cung ứng phức tạp bao gồm nhiều giao dịch ở các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất.

Giống như một quốc gia có nguồn lao động dồi dào có lợi thế so sánh trong việc sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động, chất lượng của hệ thống pháp luật có thể quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia trong các sản phẩm "sử dụng nhiều hợp đồng". Thực tế, đã chứng minh rằng, các quốc gia có thể chế pháp lý ưu việt có lợi thế hơn trong việc sản xuất các sản phẩm đòi hỏi các giao dịch phức tạp và có nhiều khả năng xuất khẩu các sản phẩm đó hơn.

Một quốc gia có khung pháp lý phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ có lợi thế hơn trong các ngành thâm dụng tri thức. Tương tự như vậy, các thể chế trong nước hỗ trợ các hoạt động kinh tế công bằng và minh bạch có thể là nguồn bổ sung cho khả năng cạnh tranh. Chúng bao gồm các quy tắc cạnh tranh, cấp phép và các nguyên tắc mua sắm chính phủ rõ ràng. Quan trọng không kém là khía cạnh thể chế của việc phát triển và sử dụng công nghệ trong nước. Quyền sở hữu trí tuệ đối với công nghệ kỹ thuật số, bản địa hóa dữ liệu và luồng dữ liệu xuyên biên giới và thương mại đang là những vấn đề mới nổi đối với chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, một số yếu tố ít mới lạ hơn vẫn có liên quan. Ví dụ, điều quan trọng đối với một quốc gia để tham gia các GVC chuyên sâu về công nghệ là mức độ mà các tiêu chuẩn công nghệ của quốc gia đó tương thích và hài hòa với hệ sinh thái công nghệ toàn cầu. Ngay cả những khía cạnh thể chế cơ bản như vậy cũng góp phần đáng kể vào khả năng cạnh tranh của một quốc gia, bên cạnh mức độ cơ sở hạ tầng vật chất - hay yếu tố vốn - và sự sẵn có của các kỹ năng vận hành tương ứng - yếu tố vốn con người.

Các công ty đa quốc gia cũng ngày càng cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như bảo vệ môi trường và thương mại công bằng. Một số chú ý nghiêm ngặt đến các kế hoạch thể chế liên quan của các quốc gia tìm nguồn cung ứng trong việc tổ chức chuỗi cung ứng xuyên biên giới. Sự hiện diện của các tiêu chuẩn thích hợp về môi trường và lao động nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia với tư cách là nhà cung cấp toàn cầu.

Tại sao các tổ chức sẽ quan trọng hơn đối với GVC?

Thứ nhất, tầm quan trọng của lao động trong việc xác định lợi thế so sánh của một quốc gia đang giảm sút. Sự chênh lệch tiền lương giữa các quốc gia từng là động lực chính của GVC. Nhưng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ mới, lao động phổ thông ở các nước đang phát triển - vốn đang ngày càng được thay thế bằng máy móc - đang nhanh chóng mất đi giá trị kinh tế. Điều này xảy ra là kết quả của việc lắp đặt rộng rãi các quy trình sản xuất tự động kỹ thuật số ở các nền kinh tế tiên tiến, được hỗ trợ bởi robot tự động, cảm biến thông minh và trí tuệ nhân tạo.

Thứ hai, có một sự thay đổi mạnh mẽ trong môi trường kinh tế trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng, đặc biệt là do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và xung đột an ninh. Các doanh nghiệp đang trở nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều hình thức can thiệp của nhà nước như đóng băng tài sản và buộc phải chuyển giao công nghệ. Các tổ chức mạnh mẽ có thể cung cấp khả năng dự đoán cho các hoạt động quốc tế của các công ty và đóng vai trò như những người bảo vệ khách quan trước những can thiệp tùy ý của chính quyền địa phương vào các hoạt động kinh doanh. Trong việc mở rộng chuỗi cung ứng, các công ty nhạy cảm với rủi ro sẽ tìm kiếm các quốc gia có thể chế chất lượng cao, hoặc ít nhất là các thuộc tính thể chế tương tự như ở nước họ.

Việc xây dựng quy tắc chung về các hình thức thể chế trong nước tốt nhất đã là một chương trình nghị sự quan trọng của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Tổ chức Lao động Quốc tế. Nhưng không phải mọi quốc gia đều là thành viên của các cơ quan này và ảnh hưởng của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực xây dựng quy tắc thể chế trong nước đã nhanh chóng mờ nhạt, ảnh hưởng đến quản trị toàn cầu trên cơ sở đa phương.

Nhưng ngay cả khi không có khuôn khổ đa phương, các nước vẫn có thể thấy có lợi khi nỗ lực cải cách thể chế trên cơ sở đơn phương cải cách và cải thiện các thể chế trong nước để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Điều này đã được chứng kiến bằng việc cắt giảm thuế quan đơn phương đối với thương mại hàng hóa ở nhiều nước Đông Á, vượt xa mức thuế suất ràng buộc trong WTO của họ.

GVC sẽ phát triển với sự tiến bộ nhanh chóng của các phương thức vận tải và công nghệ truyền thông thông tin, cũng như mối quan tâm ngày càng lớn với việc đa dạng hóa năng lực sản xuất sau đại dịch COVID-19. Có khả năng là các GVC sẽ tiếp tục mở rộng về mặt địa lý. Nhưng việc tổ chức lại chuỗi giá trị không còn bị thúc đẩy bởi lực lượng chênh lệch tiền lương giữa các nước phát triển và đang phát triển vì tiền lương ít quan trọng hơn trong thời đại của người máy và trí tuệ nhân tạo. Thay vào đó, GVC sẽ thúc đẩy "chuỗi giá trị ngang hàng" giữa các quốc gia có các thuộc tính thể chế tương tự.

Minh Hoàng
Ý kiến của bạn