10 tháng, tổng giá trị trái phiếu chậm trả mới chỉ đạt 16.600 tỷ đồng

Tài chính - Đầu tư
09:29 AM 10/11/2024

Theo VIS Rating, không có trái phiếu chậm trả phát sinh mới trong tháng 10. Trong 10 tháng qua, tổng giá trị trái phiếu chậm trả mới chỉ đạt 16.600 tỷ đồng, giảm mạnh so với 137.600 tỷ đồng của cùng kỳ năm trước.

Theo báo cáo thị trường trái phiếu doanh nghiệp mới nhất của Công ty CP Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating), trong tháng 10/2024, không có thêm trái phiếu nào chậm trả phát sinh. Trong 10 tháng qua, tổng giá trị trái phiếu chậm trả mới chỉ đạt 16.600 tỷ đồng, giảm mạnh so với 137.600 tỷ đồng của cùng kỳ năm trước.

Tỷ lệ chậm trả lũy kế cuối tháng 10/2024 duy trì ổn định ở mức 14,9%, với nhóm ngành năng lượng có tỷ lệ cao nhất (45%) và bất động sản nhà ở chiếm 60% tổng lượng trái phiếu chậm trả.

10 tháng, tổng giá trị trái phiếu chậm trả mới chỉ đạt 16.600 tỷ đồng- Ảnh 1.

Trái phiếu doanh nghiệp chậm trả giảm mạnh trong 10 tháng. Ảnh: Int

VIS Rating cho biết, vẫn có 14 trong tổng số 42 trái phiếu đáo hạn trong tháng 11/2024 có rủi ro cao không trả được nợ gốc đúng hạn. Hầu hết những trái phiếu này đã chậm trả lãi trái phiếu trước đó. Có 33% số trái phiếu đáo hạn tháng 11/2024 có nguy cơ chậm trả gốc, cao hơn so với tỷ lệ 10,5% trái phiếu chậm trả nợ gốc trong 10 tháng năm 2024.

Trong vòng 12 tháng tới, có khoảng 109.000 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn thuộc nhóm ngành bất động sản nhà ở, chiếm gần một nửa tổng giá trị trái phiếu đáo hạn. Trong số này, ước tính có khoảng 30.000 tỷ đồng trái phiếu có nguy cơ chậm trả nợ gốc.

Về tình hình xử lý trái phiếu chậm trả, trong tháng 10/2024, có 13 tổ chức phát hành chậm trả thuộc các lĩnh vực bất động sản nhà ở, năng lượng, và du lịch - nghỉ dưỡng đã hoàn trả tổng cộng 269 tỷ đồng tiền gốc cho trái chủ.

Đáng chú ý, 50% trong số này là từ một doanh nghiệp thuộc nhóm năng lượng, trước đó từng chậm trả lãi trong các năm 2022 và 2023. Tỷ lệ thu hồi các trái phiếu chậm trả đã tăng nhẹ lên 21,5% vào cuối tháng.

Trong tháng 10/2024, lượng phát hành trái phiếu mới giảm xuống 28.100 tỷ đồng, từ mức 56.200 tỷ đồng trong tháng 9/2024. Các ngân hàng thương mại đã phát hành tổng cộng 15.800 tỷ đồng, tiếp tục chiếm phần lớn trong các đợt phát hành mới.

Trong số các trái phiếu do các ngân hàng phát hành vào tháng 10/2024, 20% là trái phiếu thứ cấp đủ điều kiện tính vào vốn cấp 2, được phát hành bởi Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Tiên Phong, Ngân hàng TMCP Lộc Phát Việt Nam và Ngân hàng TMCP Bắc Á.

Các trái phiếu vốn cấp 2 này có kỳ hạn từ 7 - 15 năm và lãi suất từ 6,5% - 7,9% trong năm đầu tiên. Các trái phiếu khác là trái phiếu không có tài sản đảm bảo với kỳ hạn 3 năm và lãi suất cố định từ 5,0% - 6,0%.

Đáng chú ý, VIS Rating thống kê trong tháng 10 này, số tổ chức phát hành có hồ sơ tín nhiệm ở mức “dưới trung bình” hoặc yếu hơn chiếm tỷ trọng 11%, đã cải thiện hơn so với tháng trước (24%). Tổ chức phát hành có hồ sơ tín nhiệm yếu thuộc nhóm Phi tài chính. Các tổ chức này có Hệ số đòn bẩy và Khả năng trả nợ ở mức "Cực kỳ yếu", phản ánh hoạt động kinh doanh của các đơn vị này không tạo ra đủ thu nhập và dòng tiền để trả nợ gốc và lãi vay.

Từ đầu năm đến nay, 56% tổ chức phát hành có tín nhiệm yếu đều thuộc nhóm ngành bất động sản, nhà ở và xây dựng. Hơn nửa số tổ chức phát hành có hồ sơ tín nhiệm yếu là các công ty mới thành lập không có hoạt động kinh doanh cốt lõi, VIS Rating cho biết.

Trong tháng 10/2024, một tổ chức phát hành thuộc nhóm ngành cơ sở hạ tầng và một tổ chức phát hành thuộc nhóm ngân hàng phát hành trái phiếu ra công chúng với tổng giá trị là 1.800 tỷ đồng. Từ đầu năm đến nay, 11,5% tổng lượng trái phiếu phát hành mới đến từ các đợt phát hành ra công chúng.

Luỹ kế từ đầu năm, lượng phát hành trái phiếu mới trong 10 tháng đạt 366.000 tỷ đồng, cao hơn tổng mức phát hành cả năm 2023.

Huyền My (t/h)
Ý kiến của bạn
Hướng đến tương lai đô thị thông minh Hướng đến tương lai đô thị thông minh

Thành phố thông minh là một trong những xu thế phát triển chủ đạo của các đô thị trên thế giới cũng như trong khu vực. Việt Nam là một trong những quốc gia đón đầu xu hướng này, và đang có nhiều chuyển biến tích cực cả về chính sách, môi trường đầu tư lẫn việc nghiên cứu, triển khai và ứng dụng thực tế tại các tỉnh, thành.