Lịch sử hình thành
Lễ hội Yên Thế bắt nguồn từ Lễ hội cầu mùa ở Phồn Xương. Từ xa xưa, cư dân làng Trung, xóm Trung, xóm Chẽ và thôn Đồng Nhân thường tổ chức lễ hội này tại đình và đền Phồn Xương, thuộc thị trấn Cầu Gồ và xã Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 (âm lịch). Trong thời kỳ khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám) - lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa, đã đổi lịch tổ chức hội này sang trung tuần tháng Giêng.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế thất bại, Lễ hội Phồn Xương không còn được tổ chức với quy mô và diễn trình như trước. Thay vào đó, nhân dân Phồn Xương thường tổ chức hội vào ngày 5 tháng Giêng (ngày giỗ của Hoàng Hoa Thám) để tưởng nhớ vị anh hùng của dân tộc. Năm 1984, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Thế, tỉnh Hà Bắc đã quyết định tổ chức Lễ hội Phồn Xương vào 3 ngày 15, 16 và 17 tháng 3 dương lịch hàng năm và lấy tên là Lễ hội Yên Thế.
Diễn trình của Lễ hội Yên Thế
Vào ngày 16 tháng 3 dương lịch hàng năm, từ sáng sớm tinh mơ, từ khắp các ngả đường của huyện Yên Thế, Tân Yên, người người nườm nượp kéo nhau đi xem hội. Người dân đi thành từng đoàn, từng tốp... không khí tưng bừng phấn khởi, người dân tập trung đông chật cả đường. Tại khu tập kết, các đoàn tham gia lễ hội đã chuẩn bị quần áo chỉnh tề, hoá trang xong chỉ còn chờ giờ xuất phát hành lễ.
Đây cũng chính là cuộc biểu dương sức mạnh, biểu dương vẻ đẹp, sự uy nghi cho không khí ngày hội Yên Thế. Chính quyền và nhân dân tổ chức khai hội, rước đón đội ngựa từ làng Hả lên Phồn Xương, sau đó là lễ diễu hành của các lực lượng trong toàn huyện và tổ chức dâng hương tưởng niệm người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám cùng những nghĩa sỹ tham gia khởi nghĩa. Đoàn rước của xã Phồn Xương rước nồi hương từ chùa Lèo về khu vực tổ chức lễ hội. Đi đầu là đoàn múa lân, sư tung cờ ngũ hành, phía sau là kiệu, trên kiệu đặt một mâm xôi gấc và thủ lợn đã luộc chín. Kiệu do bốn trai đinh khiêng, hai bên có hai người che tàn và lọng, phía sau là các cụ trong hội người cao tuổi, với trang phục truyền thống, sau cùng là nhân dân trong xã, ăn mặc chỉnh tề cùng tiến vào lễ đài. Những người tham gia khiêng kiệu, vác cờ, tàn, lọng đều mặc áo đỏ, đầu chít khăn đỏ, cả đoàn rước khí thế, trang nghiêm tiến vào lễ đài, kiệu được đặt phía trước bên trái tượng đài.
Tham gia rước kiệu bát cống của thị trấn Cầu Gồ gồm 8 trai tân được nhân dân thị trấn tuyển chọn, mặc quần áo nậu, đầu chít khăn đỏ. Mâm ngũ quả, xôi oản được đặt trên kiệu. Khi giờ lành đến, cả đoàn bắt đầu tiến về hội trường trung tâm. Đi đầu đoàn rước là đội múa lân, sư, có các anh hề, chú tễu nhảy múa theo nhịp trống, đi sau là cờ ngũ hành, tiếp đó là 10 trai đinh, trang phục áo nậu, đầu chít khăn đỏ, tay cầm bát bửu đi thành hai hàng, phía sau là kiệu. Đi hai bên kiệu là hai người cầm lộng che, tiếp sau là các cụ ông trong trang phục quần áo tế, chân đi hia, sau nữa là các cụ bà trong trang phục quần áo màu vàng, sau cùng là các ban, ngành, đoàn thể và bà con nhân dân trong thị trấn. Kiệu của thị trấn Cầu Gồ đặt ở phía bên phải tượng đài. Hai kiệu của thị trấn Cầu Gồ và xã Phồn Xương đứng uy nghiêm hai bên tượng đài, bên dưới là đoàn đại biểu, khách thập phương cùng về dự hội xếp thành hàng, trang nghiêm, trước tượng đài Hoàng Hoa Thám.
Đúng 8 giờ, buổi lễ bắt đầu, lãnh đạo (tỉnh/huyện) thay mặt Ban tổ chức lên đọc diễn văn khai Hội, ôn lại truyền thống hào hùng của nghĩa quân Yên Thế. Sau diễn văn khai hội là ba hồi chiêng trống. Tiếp đó, Đoàn Nghệ thuật chèo Bắc Giang diễn lại buổi lễ tế cờ năm xưa của nghĩa quân Đề Thám. Sau lễ tế cờ long trọng, đoàn đại biểu của tỉnh, huyện, các xã, nhân dân và khách thập phương lần lượt lên dâng hương trước tượng đài. Khi lễ khai hội kết thúc, tại đồn Phồn Xương (trong đền thờ Bà Ba), nhân dân chẩn bị lễ vật để tế linh hồn các nghĩa quân. Lễ vật cúng tế bao gồm 5 mâm lễ có đầy đủ gà, bánh dầy, cơm nắm, bánh gio, chè lam, xôi, thịt lợn ba chỉ luộc, rau diếp, 6 chiếc bát con, 6 đôi đũa, rượu, bánh chưng vuông, muối trắng, muối vừng.
Các nghi lễ gồm: lễ tế, lễ dâng hương, lễ phóng sinh,...
Sau những nghi lễ trang trọng, các trò chơi dân gian trong hội rất sôi nổi, sinh động và thu hút được đông đảo cộng đồng và du khách tham gia: thanh thiếu niên, học sinh tham gia cắm trại, biểu diễn võ thuật, thi bắn súng, bắn cung nỏ, thi đấu cờ người, đu, vật, bóng chuyền, bóng đá, thi tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa Yên Thế,… các đoàn nghệ thuật quần chúng biểu diễn, chiếu phim về Đề Thám và cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Lễ hội Yên Thế đã khích lệ tinh thần nhân dân Yên Thế nói riêng, nhân dân Bắc Giang nói chung, cùng hướng về người anh hùng dân tộc và các nghĩa sĩ, để cầu mong những điều tốt đẹp cho gia đình, xã hội,… Lễ hội đã trở thành một "món ăn tinh thần" không thể thiếu đối với cư dân nơi đây và là di sản văn hóa phi vật thể có tính đại diện, thể hiện bản sắc của cộng đồng các dân tộc huyện Yên Thế, đó là: tinh thần đoàn kết, thượng võ, bất khuất, yêu nước, yêu chuộng hòa bình,... Lễ hội Yên Thế cũng phản ánh sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người, thể hiện ở các nghi lễ của người Việt, các trò chơi dân gian độc đáo của người Tày, Nùng,… liên tục được kế thừa và phát huy trong đời sống. Hiện nay, Lễ hội Yên Thế đã trở thành một lễ hội lớn, quen thuộc với nhân dân huyện Yên Thế nói riêng, nhân dân Bắc Giang nói chung.
Lễ hội Yên Thế là một lễ hội lớn, gắn liền với những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế - di tích quốc gia đặc biệt. Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Lễ hội Yên Thế vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Lễ hội truyền thống.
(Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa)