Coi khu dự trữ sinh quyển như một thể thống nhất để quản lý
Khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) thế giới được công nhận trong khuôn khổ “Chương trình Con người và Sinh quyển” (MAB) của UNESCO được định nghĩa là những khu vực hệ sinh thái bờ biển hoặc trên cạn giúp thúc đẩy các giải pháp điều hòa việc bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH). Có giá trị nổi bật được quốc tế công nhận.
Theo ông Hoàng Văn Thức, Phó Tổng trưởng Tổng cục Môi trường, tại Việt Nam, Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và sinh quyển (MAB) là cơ quan đầu mối quốc gia của UNESCO tại Việt Nam được thành lập vào năm 1985 với mục đích xây dựng và đề xuất các khu Dự trữ sinh quyển (DTSQ) để quốc tế công nhận, hỗ trợ quản lý và duy trì việc kết nối quốc gia với quốc tế trong lĩnh vực này.
Cho đến nay, Việt Nam có 9 khu DTSQ được Chương trình con người và sinh quyển thế giới (MAB-UNESCO) công nhận, thuộc cả vùng đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo, bao gồm: khu DTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ (2000), khu DTSQ Quần đảo Cát Bà (2004); Khu DTSQ châu thổ Sông Hồng (2004), khu DTSQ ven biển và hải đảo Kiên Giang (2006), khu DTSQ miền Tây Nghệ An (2007), khu DTSQ Mũi Cà Mau (2009), khu DTSQ Cù Lao Chàm - Hội An (2009), khu DTSQ Đồng Nai (2011), khu DTSQ Lang Biang (2015). Nếu so trong 9 nước có khu DTSQ ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam chỉ đứng sau Indonesia về số lượng (11khu).
Tổng diện tích của 9 khu DTSQ của Việt Nam là hơn 4 triệu ha, chiếm khoảng 12,1% diện tích tự nhiên cả nước. Đây cũng là nơi sinh sống của khoảng 1,78 triệu người. Riêng diện tích vùng lõi (Chủ yếu là các VQG, KBT và rừng đặc dụng) chiếm 11% tổng diện tích của các khu DTSQ (Khoảng 450.000 ha), nơi đây tập trung đa dạng sinh học cao với sự phong phú các dịch vụ hệ sinh thái. Khu DTSQ nhỏ nhất là quần đảo Cát Bà với 26.241 ha và lớn nhất là Tây Nghệ An với hơn 1,3 tr ha.
Khu DTSQ ở Việt Nam chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan khác nhau. Trong khi vùng lõi (VQG, KBT) quản lý trực tiếp theo ngành dọc của các bộ chuyên ngành (Bộ NN&PTNT, Bộ TN & MT, Bộ VHTT&DL). Do đó, để tổ chức phối hợp hoạt động của các sở, ban, ngành liên quan của các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng, các khu DTSQ đã thành lập các Ban quản lý và các bộ phận hỗ trợ (Gọi chung là BQL). Đối với các khu DTSQ nằm trong ranh giới 1 tỉnh, quyết định thành lập BQL do UBND tỉnh phê duyệt. Trong trường hợp khu DTSQ nằm trong ranh giới của nhiều tỉnh như khu DTSQ châu thổ sông Hồng thì quyết định thành lập BQL do UNESCO Việt Nam ban hành.
BQL thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp UBND tỉnh/ thành phố quản lý KDTSQ theo các quy định của pháp luật Việt Nam và theo hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của ỦY ban UNESCO Việt Nam và ủy ban MAB Việt Nam. Các khu DTSQ thường có một cơ cấu sau: (1) Ban quản lý; (2) Văn phòng hoặc bộ phận thư ký; (3) Hội đồng tư vấn. Cụ thể:
Về cơ cấu tổ chức, BQL do một lãnh đạo cấp tỉnh/ thành phố làm trưởng ban, với các thành viên là lãnh đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện thuộc khu DTSQ và các bên có liên quan khác. Tùy theo điều kiện đặc thù của từng khu DTSQ, một số thành viên BQL là đại diện của các bên có liên quan khác tại địa phương cũng tham gia như: các nhà khoa học hoặc viện nghiên cứu (Cát Bà và Mũi Cà Mau), doanh nghiệp hoặc hiệp hội doanh nghiệp (Đồng Nai và Mũi Cà Mau), cơ quan đoàn thể (Đồng Nai). Riêng khu DTSQ miền Tây Nghệ An, không có đại diện các tổ chức khác nằm trong BQL. Ban quản lý khu DTSQ Đồng Nai lại không có bất cứ đại diện của UBND và các sở, ban, ngành các tỉnh có liên quan tới khu DTSQ. Hiện tại, viện quản lý các khu DTSQ dựa trên sự hợp tác giữa Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và Sinh quyền (MAB Việt Nam) và BQL của các khu DTSQ. Hiện các BQL khu DTSQ hiện chưa có mô hình tổ chức thống nhất. Mỗi địa phương hình thành bộ máy tổ chức quản lý khu DTSQ tùy thuộc tiếp cận của mình.
Các bên liên quan tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản lý khu DTSQ ở Việt Nam gồm 4 nhóm chính nhưng không đầy đủ: i) Khối cơ quan nhà nước gồm: i) các bộ, ngành và cơ quan cấp trung ương: UNESCO Việt Nam, MAB Việt Nam, Bộ NN & PTNT, Bộ TN&MT, Bộ KH&CN, Bộ Ngoại giao; ii) cấp địa phương: BQL khu DTSQ, các sở, ngành liên quan (TN&MT, NN&PTNT, VHTT&DL, …), BQL các khu bảo tồn/VQG, UBND các huyện, xã/ phòng/TT; ii) cộng đồng địa phương: Gồm đại diện các xã trong 3 phân vùng chức năng, các tổ chức quần chúng (như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, các nhóm bảo vệ rừng – đại diện cộng đồng; iii) Các tổ chức nghiên cứu, đào tạo, phát triển: UNESCO quốc tế, các tổ chức/ dự án trong và ngoài nước, chuyên gia, cán bộ nghiên cứu của các viện, trường đại học và tổ chức phi chính phủ (NGOs); và iv) Doanh nghiệp địa phương (du lịch, nông nghiệp, xây dựng,…).
Tuy nhiên, một thách thức đặt ra là thực thể "khu dự trữ sinh quyển" không được đề câp trong những chính sách quan trọng như là một thể thống nhất và vì thế cũng không được quản lý một cách chính thống của hệ thống cơ quan quản lý của việt Nam, mà chỉ được đề cập như là một hợp phần của khu DTSQ là vùng lõi (VQG/KBT). Hiện tại, khái niệm khu DTSQ vẫn còn chưa có trong hệ thống quy phạm pháp luật quản lý quốc gia hiện hành. Đồng thời, vẫn chưa có chính sách quản lý thống nhất đối với khu DTSQ từ cấp trung ương đến địa phương thậm chí, các hướng dẫn về các quy định chung đối với quản lý khu DTSQ vẫn còn đang rất thiếu. Mặc dù theo Nghị định số 36/2017/ND-CP của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 04/04/2017 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TN&MT.
Theo đó Bộ TN&MT được giao nhiệm vụ làm đầu mối quốc gia, nhằm chỉ đạo, hướng dẫn việc lập hồ sơ đề cử công nhận và quản lý các khu DTSQ thế giới (Điều 2, mục 10, khoản 1). Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể về khu DTSQ được ban hành, đặc biệt liên quan đến việc tổ chức quản lý thống nhất các khu DTSQ ở Việt Nam cũng như định hướng cụ thể bằng văn bản cho sự phát triển hệ thống này trong tương lai.
Cẩm TúTheo Trung tâm Dự báo và Phân tích Kinh tế Độc lập (CEBR), với tốc độ phát triển nhanh, dự báo quy mô GDP của Việt Nam sẽ sớm vượt Singapore. Đặc biệt, năm 2025 có thể đánh dấu cột mốc Việt Nam gia nhập nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao.