Dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã lên tới 134%

Tài chính - Đầu tư
10:50 AM 20/06/2025

Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng, dư nợ tín dụng/GDP vào cuối năm 2024 ở mức 134% GDP, nếu tiếp tục dựa vào nguồn vốn ngân hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế.

Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn ngày 19/6 tại Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng đã phát biểu làm rõ những vấn đề liên quan được đại biểu Quốc hội quan tâm.

Cụ thể, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết nền kinh tế Việt Nam sau 40 năm đổi mới đã đạt nhiều thành tựu nhưng vẫn còn tồn tại, hạn chế. Vì vậy, việc rà soát, làm mới các động lực tăng trưởng là yêu cầu cấp thiết được đặt ra bởi Trung ương, Bộ Chính trị và Quốc hội.

Dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã lên tới 134%- Ảnh 1.

Thống đốc cho rằng các bộ, ngành cần tính toán rõ nguồn vốn, khả năng huy động, phân kỳ và dự phòng để không tạo áp lực đến ổn định vĩ mô. Ảnh: Quochoi.vn.

Phân tích từ góc độ đầu tư, bà Hồng chia sẻ, tăng trưởng của nền kinh tế dựa vào vốn rất lớn. Tuy nhiên, hiệu quả lại chưa cao, phản ánh qua chỉ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực. Điều này đặt ra yêu cầu phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) nhiều nhưng ta chưa tận dụng lợi thế nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị và sự kết nối khu vực này với trong nước. Vì vậy cần phải có sự thay đổi làm mới thu hút FDI theo hướng chuyển giao vốn, công nghệ, quản trị gắn với kinh tế trong nước nhiều hơn.

Đồng tình với quan điểm của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc để tăng trưởng kinh tế cao cần dựa vào vốn trong nước và nước ngoài, bà Hồng cho rằng vốn nước ngoài có thể đa dạng.

Ví dụ như thu hút FDI, vay nợ nước ngoài, đầu tư gián tiếp khi chỉ tiêu nợ nước ngoài hiện nay có dư địa mở rộng thu hút nước ngoài. Đặc biệt với khẳng định của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc mở rộng nguồn vốn và đảm bảo an toàn chỉ tiêu nợ công, nợ nước ngoài.

Thống đốc cho rằng cần lưu ý vốn trong nước phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung và dài hạn. Trong đó dư nợ tín dụng/GDP (tổng sản phẩm nội địa) là 134% vào cuối năm 2024, nên nếu tiếp tục dựa vào nguồn vốn ngân hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khó có thể tăng trưởng cao, khó đi đôi với bền vững. Đây là vấn đề các bộ ngành điều hành kinh tế vĩ mô cần hết sức lưu ý khi cân đối các nguồn vốn cho mục tiêu tăng trưởng.

Từ nay đến năm 2030, Việt Nam dự kiến triển khai hàng loạt dự án lớn như mở rộng 5.000 km đường cao tốc, xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam, sân bay Long Thành, thực hiện Quy hoạch điện VIII, cam kết khí hậu COP26... Thống đốc cho rằng các bộ, ngành cần tính toán rõ nguồn vốn, khả năng huy động, phân kỳ và dự phòng để không tạo áp lực đến ổn định vĩ mô.

Bên cạnh đầu tư và xuất khẩu, Thống đốc nhấn mạnh cần khai thác mạnh hơn tiêu dùng nội địa. Với dân số hơn 100 triệu người, đây là lợi thế mà nền kinh tế cần phát huy. Thống đốc cho biết ngoài các động lực truyền thống, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57 nhằm thúc đẩy tăng trưởng từ đổi mới công nghệ, sáng tạo và chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, các yếu tố dài hạn như biến đổi khí hậu và nguy cơ già hóa dân số cũng cần được quan tâm sớm.

Từ góc độ ngành ngân hàng, Thống đốc nhấn mạnh vai trò của hệ thống ngân hàng là huyết mạch nền kinh tế, kích hoạt và lan tỏa đến các động lực tăng trưởng. Giai đoạn qua, tín dụng tăng bình quân 14-15%/năm. 

Năm 2025, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16%, có thể điều chỉnh linh hoạt nếu lạm phát được kiểm soát. Ngành ngân hàng tiên phong ứng dụng chuyển đổi số, giúp tiết kiệm thời gian thực hiện giao dịch và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Về điều hành chính sách tiền tệ, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục bám sát diễn biến linh hoạt, thực hiện giải pháp công cụ điều hành hợp lý với thời lượng hợp lý nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.

Dù vậy Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mong muốn có sự phối hợp các chính sách, đảm bảo hài hòa chung, thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao và ổn định.

Huyền My (t/h)
Ý kiến của bạn
Việt Nam giữ vững ổn định kinh tế - xã hội giữa những biến động địa chính trị toàn cầu Việt Nam giữ vững ổn định kinh tế - xã hội giữa những biến động địa chính trị toàn cầu

Trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị, rào cản thương mại và gián đoạn chuỗi cung ứng hiện nay, Việt Nam duy trì ổn định kinh tế, ổn định xã hội, nhiều khó khăn thách thức sẽ tiếp tục tạo ra những thuận lợi trong thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đó là thông tin được đưa ra tại họp báo thường kỳ Bộ Công Thương chiều 19/6/2025.