Ngành dệt may của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19
Với chuỗi cung ứng chỉ phụ thuộc vào một vài đối tác quan trọng, ngành dệt may của Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch COVID-19.
Đại dịch mang tên Covid-19 có lẽ là sự kiện được nhắc tới nhiều nhất trong quý 1 năm 2020 nói riêng và cả năm 2020 nói chung. Sự lan tràn của dịch bệnh, khởi nguồn từ Thành phố Vũ Hán - Trung Quốc đã lan ra khắp thế giới, tới Hàn Quốc, Nhật Bản, tới Ý, Châu Âu và Mỹ. Covid-19 đến vào thời điểm kinh tế thế giới đang tổn thương và đánh thêm một đòn “chí mạng”. Sự lây lan toàn cầu của đại dịch này đã dập tắt kỳ vọng tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong năm 2020. Nó khiến nền kinh tế toàn cầu trì trệ, tăng trưởng ở mức chậm nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009.
Ảnh minh họa
Ngành dệt may Việt Nam có truyền thống tập trung vào sản xuất hàng may mặc, ít chú trọng đầu tư sản xuất vải. Ước tính, Việt Nam nhập khẩu vải đến 89% - 55% từ Trung Quốc, 16% từ Hàn Quốc, 12% từ Đài Loan và 6% từ Nhật Bản. Thị trường Mỹ và EU chiếm hơn tỷ trọng 60% lượng hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam.
Khi đại dịch Covid-19 xảy ra vào tháng 1/2020, các nhà sản xuất vải Trung Quốc đã đình chỉ sản xuất, làm gián đoạn việc cung cấp vải cho Việt Nam. Khi dịch Covid-19 dịch chuyển về phía tây từ Trung Quốc vào tháng 3, nhiều đơn đặt hàng từ Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ đã bị hủy bỏ, gây thiệt hại đáng kể cho các nhà sản xuất hàng may mặc của Việt Nam.
Theo báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 70% các nhà sản xuất hàng may mặc bắt đầu giảm ca và luân chuyển công nhân vào tháng 3/2020, 10% sau tháng 4 hoặc tháng 5. Đến tháng 6 năm 2020, thiệt hại ước tính cho ngành công nghiệp này có thể lên tới 508 triệu đô la Mỹ. Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, nhập khẩu và xuất khẩu tất cả các sản phẩm dệt may đã giảm mạnh trong quý đầu năm 2020. Xuất khẩu hàng may mặc đạt 7,03 tỷ USD, giảm 1,4% so với năm 2019 và thấp hơn mức tăng trưởng dự kiến 50% trước đại dịch.
Về cung, trong tháng 1 và 2/2020 khi dịch Covid-19 bùng phát tại Trung Quốc, nhiều nhà máy sợi, dệt đã bị đóng cửa, công nhân nghỉ việc kéo dài. Tình trạng này khiến tình hình cung ứng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp dệt may trên toàn thế giới bị ảnh hưởng, nhất là những quốc gia chuyên sản xuất gia công như Việt Nam, Bangladesh.
Về cầu, bước sang tháng 3, khi dịch bệnh lan rộng ra các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Châu Âu và Mỹ, nhu cầu tiêu dùng toàn thế giới bị ảnh hưởng nặng nề. Nhu cầu bị ảnh hưởng tiêu cực do 2 nguyên nhân: Một là, kinh tế bất ổn khiến người tiêu dùng chỉ tập trung vào các sản phẩm thiết yếu như thực phẩm, khẩu trang, nước rửa tay; Hai là, dịch bệnh khiến dân chúng hạn chế tập trung đông người, không đi lại khiến người dân không thể mua sắm ở các cửa hàng truyền thống. Thay vào đó, chỉ ở nhà. Kinh tế suy thoái và sự không chắc chắn khi nào hồi phục do dịch bệnh chưa có dấu hiệu ngừng lại cũng kéo theo tâm lý thắt chặt hầu bao. Vì lẽ đó, nhà nhập khẩu và người mua hàng đều có xu hướng giãn hoặc hủy đơn hàng đã đặt.
Tổng cầu dệt may toàn thế giới năm 2020 có nguy cơ sụt giảm. Năm 2019 mức nhập khẩu dệt may thế giới là 780 tỷ USD. Dịch bệnh kéo dài đến Quý III/2020, dự báo cầu nhập khẩu dệt may thế giới sẽ xuống đến ngưỡng 600 – 680 tỷ USD, giảm từ 15-25% so với mức 780 tỷ USD của năm 2019. Nhìn chung, nhu cầu hàng hoá xuân - hè đã qua, năm nay sẽ là năm thị trường mất mùa một vụ. Khảo sát của Liên đoàn các nhà sản xuất thiết bị và hàng hoá dệt may cũng cho ra một dự báo về khả năng suy giảm 25% tổng cầu 2020 toàn thế giới.
Với ngành Dệt May Việt Nam, nhất là đối với ngành may mặc, tình trạng hủy đơn hàng, giãn đơn hàng rất nghiêm trọng. Nhiều doanh nghiệp đã chứng kiến ngay mức doanh thu giảm 20% trong quý I/2020, thời gian mở LC cũng kéo dài, trước kia là 60 ngày thì nay là 120 ngày. Doanh nghiệp xuất khẩu FOB gặp nhiều khó khăn do vốn đọng ở nguyên phụ liệu. Nhiều doanh nghiệp lâm cảnh nợ nần ngân hàng. Cùng với tình trạng hủy đơn hàng là tình trạng giãn đơn hàng, với các đơn hàng giao trong tháng 3 đều bị lùi xuống tháng 4, tháng 5. Nhiều doanh nghiệp may xuất khẩu chỉ hoạt động trong trạng thái cầm cự trong tháng 4, đến tháng 5 hoàn toàn chưa có đơn hàng mới. Nhiều doanh nghiệp chuyển sang may khẩu trang với hy vọng sẽ duy trì được việc làm cho công nhân. Tuy nhiên, khi thị trường trong nước đã bão hòa, khẩu trang chỉ là giải pháp tạm thời, không đảm bảo được cho các doanh nghiệp may sống sót được hết năm 2020.
Bất chấp tác động tàn phá của COVID-19, đại dịch cung cấp một số bài học quý giá cho ngành công nghiệp về sự phục hồi và cách để tiến về phía trước.
Thứ nhất, điều cần thiết là thiết lập một chuỗi cung ứng vải và các nguyên liệu thô khác, dựa trên sự phát triển của sản xuất vải trong nước. Có nguồn cung cấp vải nội địa ổn định sẽ giảm thiểu sự gián đoạn và giúp tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) áp đặt quy tắc xuất xứ. Ví dụ, để được hưởng mức thuế ưu đãi theo FTA (EVFTA) của Liên minh Châu Âu đã ký gần đây, các nhà sản xuất hàng may mặc Việt Nam phải đáp ứng quy tắc chuyển tiếp vải yêu cầu sử dụng vải sản xuất trong nước (ngoại trừ vải nhập khẩu từ Hàn Quốc).
Thứ hai, điều quan trọng là đa dạng hóa cơ sở nhu cầu để giảm sự phụ thuộc quá nhiều vào một số khách hàng quan trọng. Việt Nam nên tận dụng các FTA, đặc biệt là Hiệp định toàn diện và tiến bộ mới được ký kết đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), để khám phá các thị trường xuất khẩu mới. Điều này cũng có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp. Các nhà sản xuất cũng nên chú ý nhiều hơn đến thị trường nội địa đầy triển vọng của Việt Nam và khám phá các dịch vụ sản phẩm mới. Nhu cầu trong nước và quốc tế về khẩu trang kháng khuẩn và thiết bị bảo vệ đã chứng minh một biện pháp cứu trợ hiệu quả và quan trọng trong cuộc khủng hoảng.
Thứ ba, các nhà sản xuất hàng may mặc Việt Nam nên xem xét thực hiện các khoản đầu tư cần thiết để tiến lên từ mô hình cắt may đơn giản nhất, thâm dụng lao động theo hướng các mô hình thâm dụng vốn hơn, cho phép tỷ suất lợi nhuận cao hơn và khả năng kiểm soát và chống chịu nhiều hơn đối với các cú sốc bên ngoài. Các công ty có khả năng sản xuất thiết bị gốc (OEM) và sản xuất thiết kế gốc (ODM) đã được chứng minh là kiên cường hơn và được trang bị tốt hơn để nhanh chóng ứng phó với đại dịch.
Mặc dù thất bại nặng nề trong thời gian này, ngành dệt may của Việt Nam cần lạc quan về tương lai. Năm 2019, hơn 80% đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong ngành dệt may đã chuyển sang sản xuất vải và các nguyên liệu thô khác.
Chính phủ cũng đang hỗ trợ ngành dệt may của Việt Nam với việc xây dựng các khu công nghiệp dệt may chuyên dụng. Khu công nghiệp dệt Rạng Đông ở tỉnh Nam Định, lớn nhất của loại hình này, dự kiến sẽ đi vào hoạt động từ năm 2022. Bất chấp cú sốc kinh tế do Covid-19, tất cả các dấu hiệu tăng trưởng đều thể hiện Việt Nam sẽ trở thành nhà xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ ba thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ.
Luật gia Đỗ Minh Chánh
Công ty CP Vận tải đường sắt cho biết tổ chức chạy tăng cường thêm nhiều chuyến tàu tuyến Bắc - Nam phục vụ người dân về quê, đón tết Nguyên đán 2025.