Nguồn cung BĐS suy giảm, giá nhà tăng, cơ hội mua nhà càng khó?
Theo các chuyên gia và cũng như lãnh đạo doanh nghiệp BĐS, vướng mắc pháp lý về thủ tục đầu tư đã và đang ảnh hưởng đến nguồn cung và giá thành sản phẩm BĐS ra thị trường.
Trong đó, khi pháp lý bị "tắc" sẽ gây tổn thất cho doanh nghiệp BĐS do bị chôn vốn trong dự án, thủ tục pháp lý dang dở, chi phí tài chính ngày càng tăng cao và ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Nhìn rộng hơn thì nguồn cung sẽ tiếp tục khan hiếm, thị trường bị lệch pha cung cầu ngày càng cao và áp lực gia tăng về giá cả trên thị trường.
Nguồn cung mới khan hiếm, giá nhà tăng mạnh
Theo Hiệp hội BĐS Tp.HCM (HoREA), các nút thắt về pháp lý dự án đã và đang đe dọa thị trường nhà ở, làm teo tóp rổ hàng, đẩy thị trường đến tình trạng khan hiếm sản phẩm. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giá bất động sản bị đội lên rất cao bất chấp Covid-19.
Đại diện đơn vị này cho rằng, những rủi ro pháp lý đã đóng băng nguồn cung nhà ở nhiều năm liền, đặc biệt sự sa sút sản lượng nhà ở trong 2 năm trở lại đây. Chưa kể, trong bối cảnh đại dịch diễn biến phức tạp càng làm trầm trọng thêm khó khăn của thị trường này.
Cụ thể, theo Sở Xây dựng TpHCM, sản lượng nhà ở toàn thành phố năm 2020 giảm gần 60% so với 2019, đồng thời cũng là mức thấp kỷ lục trong nửa thập niên qua. Điều đáng quan ngại nhất chính là sản lượng nhà giá rẻ - loại nhà vừa với túi tiền của đại đa số người dân, chỉ còn chiếm 1% rổ hàng trong bối cảnh giá nhà vẫn leo thang bất thường.
Còn theo báo cáo quý 2/2021 của Bộ Xây dựng, cả nước chỉ có 69 dự án nhà ở thương mại được cấp phép, bằng 73% so với quý trước và khoảng 21% so với cùng kỳ năm 2020.
Nguồn cung nhà ở cả nước sụt giảm mạnh trong 2 năm nay, trong khi giá nhà vẫn tăng mạnh, ảnh hưởng đến cơ hội sở hữu nhà của người dân
Riêng tại Tp.HCM, theo báo cáo của CBRE Việt Nam, tổng nguồn cung chào bán tại thị trường trong nửa đầu năm 2021 là 5.600 căn, thấp hơn 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý,nguồn cung căn hộ sụt giảm lớn, ảnh hưởng đến cả số lượng căn hộ bán được. Nhưng giá bán căn hộ ở Hà Nội và Tp.HCM đều tăng. Đặc biệt ở Tp.HCM, giá bán trung bình căn hộ tại TP trong 6 tháng đầu năm là khoảng 2.260 USD/m2 và tất cả các phân khúc đều có mức tăng giá so với năm trước. Mức tăng giá bình quân tại Tp.HCM là khoảng 15-16%, khá là cao. Tại Hà Nội, mức tăng giá khoảng 3-9%.
Trong rất nhiều vướng mắc về pháp lý đang là rào cản cho thị trường BĐS, Hiệp hội BĐS Tp.HCM chỉ ra một vướng mắc về thực hiện thủ tục Quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư, dự án nhà ở có quỹ đất hỗn hợp đang là rào cản lớn, ảnh hưởng đến nguồn cung thị trường BĐS. Theo đó, mới đây, HoREA đã có văn bản số 84/2021/CV-HoREA về việc tháo gỡ ách tắc dự án nhà ở, cần đánh giá khách quan tác động của điểm C khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư 2020 gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Công văn nêu, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư (sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 23 Luật Nhà ở) một trong các hình thức sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại là nhà đầu tư phải "có quyền sử dụng đất ở hợp pháp và các loại đất khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở".
Theo đó, điều kiện để được xác định làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở thương mại đồng thời với quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư là: nhà đầu tư phải có quyền sử dụng đất ở hoặc có quyền sử dụng đất ở và các loại đất khác. Theo quy định này, tất cả các dự án nhà ở thương mại mà nhà đầu tư đã có quyền sử dụng đất nhưng không phải là đất ở hoặc không có một phần diện tích đất ở, mặc dù phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì cũng không được chấp thuận là chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại.
Theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch HoREA, rào cản pháp lý gây khó khăn cho doanh nghiệp BĐS, tắc nguồn cung, DN có thể "chết trên đống tài sản"
Theo Hiệp hội BĐS Tp.HCM (HoREA), căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư 2021 (sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 23 Luật Nhà ở 2014), nếu trong các khu đất trên đây "có dính với đất ở" dù chỉ là 1 căn nhà có diện tích vài chục mét vuông có sổ đỏ "đất ở" thì doanh nghiệp được công nhận chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại; Nhưng nếu trong các khu đất trên đây "không dính với mét vuông đất ở" nào thì doanh nghiệp lại không được công nhận chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại. Điều này là rất là vô lý!
Theo HoREA, trong 5 năm 2015-2020, tuyệt đại đa số, có thể chiếm đến khoảng 95% tổng số dự án nhà ở thương mại do không có 100% đất ở, nên không được công nhận chủ đầu tư, không thể triển khai thực hiện được dự án, nhưng nhà đầu tư đã bỏ ra một nguồn vốn rất lớn để tạo lập quỹ đất, bị "chôn vốn", nên cực kỳ khó khăn, có thể bị "chết trên đống tài sản", dẫn đến môi trường đầu tư trong lĩnh vực bất động sản thiếu minh bạch, thiếu công bằng và thiếu sự cạnh tranh lành mạnh.
Doanh nghiệp lâm vào thế khó, cần sớm sửa đổi Luật
Dưới óc độ doanh nghiệp BĐS, bà Nguyễn Hương, CEO Đại Phúc Land cho rằng, các DN BĐS gặp rất nhiều khó khăn do thủ tục pháp lý chồng chéo, bất cập kéo dài nhiều năm qua. Vì vậy cần sự xem xét, điều chỉnh một cách toàn diện và mạnh mẽ các quy định về pháp lý dự án hiệu quả hơn, đặc biệt là các sửa đổi liên quan đến Luật đầu tư, Luật đất đai giúp khơi thông nguồn lực đầu tư cho các dự án, giải quyết bài toán cung cầu thị trường và giúp thị trường phát triển một cách bền vững.
Bà Hương lấy ví dụ như quy định ở điểm C khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư (sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 23 Luật Nhà ở), sẽ gây nhiều khó khăn cho các DN. Theo đó, bà Hương lấy ví dụ 1 dự án khi lập quy hoạch sẽ có nhiều nguồn gốc đất khác nhau và pháp lý không đồng bộ. Dự án quy mô càng lớn nguồn gốc đất càng đa dạng và như vậy áp lực và thời gian giải phóng mặt bằng càng kéo dài. Việc quy định dự án phải có "100% đất ở" là quá cứng nhắc và không phù hợp với thực tế do đó sẽ tiếp tục dẫn đến ách tắc về thủ tục pháp lý kéo dài và bế tắc.
Những dự án đang đền bù giải tỏa thì tiến thoái lưỡng nan. Nếu không được tháo gỡ sớm, nhiều CĐT sẽ bị chôn vốn quá lâu mà không nhìn thấy lối thoát. Sẽ rất khó và bất khả thi đối với những dự án có quy mô lớn
Điều này sẽ làm nguồn cung tiếp tục khan hiếm, thị trường lệch pha cung cầu ngày càng cao và áp lực tăng về giá cả trên thị trường.
Đứng góc độ doanh nghiệp, bà Nguyễn Hương cho rằng, việc quy định dự án phải có "100% đất ở" là quá cứng nhắc và không phù hợp với thực tế do đó sẽ tiếp tục dẫn đến ách tắc về thủ tục pháp lý kéo dài và bế tắc khiến DN BĐS rơi vào thế khó, thị trường BĐS bị ảnh hưởng. Ảnh nguồn: Nhà đầu tư
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Hoàng, Giám đốc R&D DKRA Vietnam cho rằng, thực tế là các CĐT có được quỹ đất từ nhiều nguồn khác nhau, hình thức khác nhau và bản chất đất đó cũng khác nhau. Nay vì một quy định dự án phải có "100% đất ở" thì sẽ khó cho doanh nghiệp BĐS vì cơ quan chức năng khi cấp phép sẽ căn cứ đúng câu chữ trong luật. Hiện nay tại Tp HCM nhiều dự án đang bị treo, vướng cũng vì những trục trặc về đất chưa được giải quyết.
"Nguồn cung BĐS hạn chế vì quy định về luật là điều đã rõ và đề cập từ nhiều năm nay. Nó bao gồm từ những điều khoản quy định của một/nhiều luật liên quan, trình tự - quy trình thủ tục phê duyệt (giấy phép, dự án, thiết kế…). Theo như HoREA, Tp.HCM có khoảng hơn 100 dự án đang bị treo, vướng vì vấn đề pháp lý dự án. Nếu giải quyết ách tắc cho các dự án này thì nguồn cung sẽ cải thiện rất nhiều", ông Hoàng chia sẻ.
Trong văn bản gửi Bộ Tư pháp ngày 30/8, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho rằng quy định ở Điểm C khoản 1 Điều 75 Luật Đầu tư là không phù hợp với khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư.
Nhiều chuyên gia nhận định, nếu đề xuất sửa đổi quy định này thì nút thắt tồn tại trên thị trường BĐS sẽ được gỡ bỏ. Ngân sách Nhà nước sẽ không bị hụt thu hàng ngàn tỷ đồng, doanh nghiệp được triển khai kế hoạch kinh doanh để bớt khó khăn do ảnh hưởng của Covid-19; nguồn cung BĐS quay trở lại, thị trường đảm bảo câu chuyện an sinh, phát triển bền vững.
Hạ VyDự kiến kim ngạch xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 2 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu nỗ lực khắc phục được những hạn chế, năm 2025, Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này lên mức 4 tỷ USD và đạt 6 tỷ USD vào năm 2030.