Những băn khoăn quanh gói phục hồi kinh tế 800.000 tỷ đồng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa trình Chính phủ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19 với quy mô khoảng 800.000 tỷ đồng (gần 35 tỷ USD), gấp 3,5 lần gói hỗ trợ của Chính phủ năm 2021. Đây là chương trình phục hồi kinh tế có quy mô lớn nhất từ trước đến nay.
Trọng tâm của gói kích thích phục hồi kinh tế giai đoạn 2022-2023
Theo Bộ Kế hoạch & Đầu tư (KH&ĐT), Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế sau dịch bệnh COVID-19 hiện nay được đánh giá là hết sức phù hợp và cấp thiết, nhằm tập trung hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khó khăn, sớm trở lại trạng thái bình thường mới và không lỡ nhịp xu thế phục hồi và phát triển của thế giới.
Chương trình này được thực hiện giai đoạn 2022 - 2023 bao gồm 4 chương trình thành phần, gồm: Chương trình tổng thể mở cửa nền kinh tế gắn với phòng, chống dịch bệnh COVID-19; Chương trình an sinh xã hội và việc làm; Chương trình phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng, khơi thông nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Dự kiến nguồn lực thực hiện chương trình khoảng 800.000 tỉ đồng (tương đương 35 tỷ USD).
Việc huy động vốn được thực hiện theo tiến độ thực hiện, giải ngân của từng chương trình thành phần, nhiệm vụ chi cụ thể. Các nguồn huy động ngân sách nhà nước chủ yếu bao gồm nguồn tiết kiệm chi thường xuyên; nguồn phát hành trái phiếu chính phủ; các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và Quỹ dự trữ ngoại hối trong trường hợp cần thiết; nguồn vay các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)…
Cơ sở để thực hiện chương trình phục hồi kinh tế này được Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân tích kĩ các yếu tố quy mô nợ công năm 2021 khoảng 43,6% GDP, thấp hơn nhiều mức cảnh báo 55% GDP. Quy mô dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD. Lãi suất cho vay trong nước và quốc tế đang ở mức thấp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định đây là nguồn lực huy động quan trọng để sử dụng nguồn vốn vào phục hồi kinh tế.
Đặc biệt, không gian chính sách tiền tệ vẫn còn dư địa để nới lỏng thêm. Lạm phát được dự báo còn ở mức thấp, lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn còn có thể giảm thêm. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi còn dư địa giảm. Thị trường chứng khoán phát triển nhanh làm giảm áp lực các kênh huy động qua tín dụng. Quy mô kiều hối khoảng 18 tỷ USD mỗi năm sẽ hỗ trợ cán cân thanh toán.
Cần hỗ trợ đi đúng trọng tâm...
Ông Hoàng Công Tuấn, Kinh tế trưởng Công ty Chứng khoán MB (MBS) nhận định đây là một chương trình có trọng điểm, hỗ trợ có chọn lọc. Sau đại dịch COVID-19 doanh nghiệp, nền kinh tế đang rất khó khăn, nhu cầu phục hồi là rất cần thiết. Con số 800.000 tỷ là ước tính, mang tính chủ trương còn thực hiện như thế nào sẽ chia từng giai đoạn, lĩnh vực cụ thể sau khi được thông qua.
"Đại dịch ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế đất nước ta, việc hỗ trợ người yếu thế, hay giảm thuế phí, hạ lãi suất - cấp bù cho doanh nghiệp, tạo điều kiện để SCIC mua lại các doanh nghiệp khó khăn, hỗ trợ hàng không - du lịch, lĩnh vực thiết yếu khác bị đình trệ là rất quan trọng. Song việc này cần phải tập trung vào đối tượng cần, đúng nhóm doanh nghiệp bị tàn phá nặng nề bởi dịch bệnh", ông Tuấn nhấn mạnh nội dung phát triển hạ tầng, đầu tư công được đẩy mạnh cũng quan trọng trong chương trình phục hồi này bởi trong 2 năm đại dịch qua thì việc giải ngân gặp khó khăn.
Ở góc độ nền kinh tế, ông Tuấn cho rằng chương trình phục hồi kinh tế quy mô lớn sẽ tác động trực tiếp giúp doanh nghiệp khôi phục sản xuất nhanh chóng, kích cầu tiêu dùng, giảm chi phí doanh nghiệp thông qua thuế phí sẽ góp phần đưa GDP sẽ tăng trưởng trở lại.
Các ngành được hưởng lợi, theo ông Tuấn là các doanh nghiệp xây dựng, doanh nghiệp trúng thầu đầu tư công. Với các ngành như hàng không - du lịch thì gói hỗ trợ chỉ mang tính chất hỗ trợ, bơm máu cho doanh nghiệp sống sót chứ không mang tính quyết định. Bởi lẽ với ngành hàng không, điểm quyết định không phải là bơm bao nhiêu vốn mà phải là mở cửa kinh tế, mở cửa bay quốc tế trở lại, từ đó mới tạo ra dòng tiền thực theo đúng chiến lược "sống chung với COVID-19".
"Ngay cả du lịch cũng vậy, phải mở cửa cho khách quốc tế, mở cửa cho du lịch trong nước, không thể đến sân bay lại xét nghiệm phức tạp rồi đủ thứ thủ tục. Góc nhìn cốt lõi vẫn là bình thường hóa như thế nào, người dân phải được đi du lịch thoải mái, mở cửa với quốc tế. Chứ bơm vốn, giảm thuế phí, cấp bù lãi suất cũng chỉ giúp doanh nghiệp sống sót", ông Tuấn phân tích.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Yuanta - cho rằng thường các chính sách tiền tệ, dòng tiền nóng được bơm ra sẽ tác động ngay đến thị trường chứng khoán, bất động sản. Nó sẽ gây ra bong bóng tài sản nếu như không được kiểm soát, còn chính sách tài khóa tức giảm thuế phí, lãi suất như trong chương trình phục hồi kinh tế 800.000 tỷ lần này đi vào đúng trọng tâm là các ngành bị tổn thương nặng nề bởi dịch bệnh nhất. Đây cũng chính là những ngành được hưởng lợi như hàng không, du lịch, ngân hàng, thủy sản, dệt may… Riêng lĩnh vực đầu tư công mức độ hưởng lợi sẽ phụ thuộc vào tốc độ giải ngân.
... và liều lượng thích hợp
Một số chuyên gia cho rằng gói quy mô trong thời gian tới dự kiến có thể lên tới 800.000 tỷ đồng nhưng thực tế quy mô của gói hỗ trợ sẽ là bao nhiêu vẫn chưa được chốt, song khi bàn về gói hỗ trợ này, nhiều chuyên gia đều đồng tình về yếu tố hiệu quả từ liều lượng thích hợp.
Nền kinh tế sau đại dịch cần thiết một gói hỗ trợ để kích thích nền kinh tế. Song hiệu quả ra sao thì cần đúng đối tượng, đúng "liều lượng".
Các gói kích thích là cần thiết, quan trọng ở thời điểm này. Song như bất kỳ một quốc gia, doanh nghiệp nào khi phải sử dụng đòn bẩy tài chính, cần phải tính toán được lợi ích mang lại đối với nền kinh tế.
"Tôi quan tâm tới việc sử dụng đồng vốn ra sao, giải ngân thế nào, đối tượng, phương thức hoàn trả. Việc đó phải song song, gắn liền với việc xác định quy mô", chuyên gia kinh tế Lê Duy Bình chia sẻ với báo chí.
Ông Bình đặt giả thiết, nếu lên tới 800.000 tỷ đồng thì việc giải ngân một gói hỗ trợ lớn như vậy sẽ phải được tính toán chi tiết gắn liền với sức hấp thụ đối với nền kinh tế, doanh nghiệp, người dân, để từ đó xác định xem gói đó đúng liều lượng chưa. Bởi nếu tiền bơm vào nền kinh tế quá nhiều (gần 10% GDP) nhưng triển khai không hiệu quả có thể dẫn đến nhiều rủi ro như vấn đề lạm phát, mất cân đối vĩ mô, bong bóng tài sản, các công trình kém chất lượng, rủi ro tham nhũng…
Lo ngại năng lực thực thi
Khi bàn về gói kích thích 800.000 tỷ đồng, các chuyên gia có chung lo ngại là năng lực thực hiện.
Cụ thể, trong tờ trình của Bộ KH-ĐT cũng đặt các giả thiết và quản trị rủi ro về mặt vĩ mô thế nào, song năng lực bộ máy triển khai các gói hỗ trợ vẫn yếu. Với chương trình "đồ sộ" này, áp lực lớn nhất là phải triển khai nhanh, minh bạch, đúng đối tượng… theo kỳ vọng đặt ra, liệu năng lực bộ máy thực thi có làm nổi?
Chẳng hạn, chương trình đưa ra quy định chính các cấp, các ngành thường xuyên theo dõi, đánh giá, điều chỉnh chính sách phù hợp; huy động sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp (DN), tổ chức chính trị, xã hội, DN, doanh nhân, người dân tham gia giám sát; kiểm tra...
Theo nhiều chuyên gia, Việt Nam đi sau, muốn về đích như các nước và hiệu quả thì ngoài bộ máy thực thi tinh nhuệ, chúng ta cần những quy định pháp luật ngoại lệ để triển khai.
Tiến sĩ Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia đề xuất: Trước khi triển khai gói hỗ trợ mới cần rà soát lại mức thực chi các gói hỗ trợ cũ để có số liệu tổng thể gói kích thích kinh tế chuẩn xác hơn. Bên cạnh nguồn lực rất quan trọng thì cần phải chú trọng thời gian thực hiện phải nhanh, hiệu quả và phải giám sát tốt để đi đúng đối tượng, tránh thất thoát.
An MaiGiá xăng, dầu tại kỳ điều hành hôm nay (7/11) được điều chỉnh tăng, mức tăng cao nhất thuộc về dầu diesel.