Phát triển bền vững các khu công nghiệp còn nhiều sức ép
Việc các KCN phải đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững vừa là sức ép, vừa là động lực buộc các KCN từng bước thay đổi, chuyển dịch theo hướng bền vững, sinh thái.
Sáng 28/3, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với các đơn vị tổ chức Diễn đàn Thúc đẩy phát triển bền vững khu công nghiệp Việt Nam.
Theo Phó Chủ tịch VCCI Nguyễn Quang Vinh, cả nước hiện có 418 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 129,9 nghìn ha, tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 89,2 nghìn ha và tỷ lệ lấp đầy khoảng 57,5%. Các doanh nghiệp trong KCN đóng góp khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, góp phần vào việc chuyển cán cân thương mại của Việt Nam từ nhập siêu, đến cân bằng và sang xuất siêu, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách.
Nếu tính riêng các KCN đã đi vào hoạt động có tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 72,5%. Các địa phương có số lượng KCN lớn như Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An đều đạt 100% KCN có hệ thống xử lý nước nước thải tập trung.
Tuy nhiên, vẫn còn một số KCN đã đi vào hoạt động chưa có HTXLNTTT là 29 KCN, tập trung tại các tỉnh Hòa Bình, Lào Cai, Phú Thọ, Hưng Yên, Ninh Bình, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Lâm Đồng, Bình Phước, Bạc Liêu, Cần Thơ, Đồng Tháp. Các nguyên nhân, khó khăn trong việc 18 KCN chưa xây dựng HTXLNTTT là do tỷ lệ lấp đầy thấp; chưa giải phóng được mặt bằng phần diện tích quy hoạch xây dựng HTXLNTTT hoặc chưa có nguồn vốn để đầu tư.
Các KCN chưa xây dựng HTXLNTTT tập trung chủ yếu tại các địa phương có khó khăn về thu hút đầu tư và nguồn vốn ngân sách. Hiện tại, nước thải của các cơ sở sản xuất hoạt động trong các KCN này do tự các cơ sở đầu tư hệ thống xử lý, và yêu cầu phải xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường quốc gia trước khi xả thải ra môi trường.
Cũng theo Phó Chủ tịch VCCI, hệ thống KCN, khu kinh tế đã góp phần quan trọng trong việc phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển sản xuất công nghiệp, tham gia chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Sự phát triển bền vững các KCN sẽ góp phần đáng kể vào việc hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Theo bà Vương Thị Minh Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang đàm phán 3 hiệp định. Trong các FTA này, những yêu cầu về các khâu sản xuất xanh sạch rất quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào thị trường khó tính. Bên cạnh đó, mục tiêu phát triển công nghiệp bền vững đã được đưa vào các cam kết về phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Đồng thời, Chiến lược quốc gia và phát triển xanh giai đoạn 2021 - 2030 cũng như cam kết của Chính phủ tại Hội nghị COP26 buộc các KCN phải phát triển theo hướng xanh, bền vững.
Dù vậy, kết quả khảo sát của Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam cho thấy, có tới 50% doanh nghiệp trong các KCN cho biết chưa từng nghe và biết đến khái niệm KCN phát triển bền vững. Chỉ có 30% có nghe, hiểu về khái niệm KCN sinh thái và chỉ có 20% là hiểu rõ KCN phát triển bền vững cần bảo đảm cân đối giữa kinh tế với môi trường, xã hội và quản trị. Kết quả này cho thấy một số "điểm nghẽn" trong các khía cạnh về nhận thức, xây dựng chính sách, quản trị của các KCN liên quan đến việc phát triển bền vững các KCN.
Theo phản ánh của các nhà đầu tư và kinh doanh hạ tầng KCN tại diễn đàn, hiện nay nhu cầu hạ tầng, mặt bằng KCN phục vụ sản xuất, kinh doanh tiếp tục tăng lên. Đáng chú ý, các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài, thường yêu cầu các KCN phải đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững. Đây vừa là sức ép, vừa là động lực buộc các KCN từng bước thay đổi, chuyển dịch theo hướng bền vững, sinh thái.
Ông Lê Hữu Phúc - Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh thông tin, Quảng Ninh hiện có 9 khu công nghiệp, các khu công nghiệp của Quảng Ninh chủ yếu là dự án FDI. Thực tiễn dự án của FDI chủ yếu ở khu công nghiệp (KCN), trong khi đó thu hút FDI ở khu kinh tế (KTT) còn thấp với rào cản đặc biệt là về vấn đề pháp lý.
Theo ông Phúc, thể chế chính sách liên quan tới KCN, KTT cần được xây dựng ở ngưỡng cao hơn. Bởi hiện nay mới ở mức Nghị định, do đó, cần ban hành Luật về KCN, KTT để tạo hành lang pháp lý. Toàn bộ quy trình quy hoạch KCN, KTT hiện rải rác ở các Luật chuyên ngành, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Thậm chí, theo Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh, Luật Đất đai mới lại đi "thụt lùi" đối với quy định liên quan KCN, KTT khi không còn quy định riêng mà việc quản lý đất đai chung như các khu vực khác, không còn cơ chế giao lại đất, chính sách ưu đãi về đất đai cho KTT gần như không có.
Bên cạnh đó, về cơ chế chính sách đặc thù thì Quảng Ninh đã nghiên cứu thấu đáo về chính sách đặc thù cho khu kinh tế nhưng vẫn chỉ đang được nghiên cứu.
Do đó, ông Phúc cho rằng chúng ta cần nghiên cứu các cơ chế chính sách tạo động lực phát triển hơn cho các KCN, KTT mà đặc biệt là đặc khu. Về huy động nguồn lực ngân sách đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh đánh giá còn hạn chế. Nguồn lực phân bổ hạn chế, chính sách hu hút nguồn lực vào các khu vực đấu nối hạ tầng cũng thấp hơn. Do đó, cần chính sách hiệu quả.
Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Sao Đỏ, Chủ đầu tư KCN Nam Đình Vũ Trần Tố Loan cho biết, mô hình KCN bền vững được thiết kế và quản lý theo định hướng tích hợp mục tiêu phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội, nhằm đạt được sự phát triển bền vững. Cũng theo bà Loan, việc phát triển KCN trở thành KCN sinh thái không chỉ là bằng ý chí chủ quan và mong muốn của riêng chủ đầu tư hạ tầng KCN, mà còn phải có sự hợp tác, chung tay của tất cả doanh nghiệp trong khu. Đồng thời, cần sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ và trợ lực về thể chế, chính sách.
Theo Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh Lê Hữu Phúc, thể chế, chính sách liên quan tới KCN, khu kinh tế hiện nay mới ở mức Nghị định. Toàn bộ các vấn đề liên quan đến KCN, khu kinh tế nằm rải rác ở các luật chuyên ngành, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Để hoàn thiện hành lang pháp lý cho KCN và khu kinh tế, ông Phúc kiến nghị cần ban hành luật.
Nhấn mạnh xu hướng phát triển của toàn cầu, các nhãn hàng và người tiêu dùng đều mong muốn thể hiện tính bền vững trong sản phẩm hàng hóa do nhãn hàng sản xuất trong chuỗi cung ứng, bà Virginia Foote - thành viên Ban điều hành AmCham Hà Nội, CEO Bay Global Straegies nhấn mạnh, Việt Nam phải tính đến sự cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực cũng đang tích cực đón đầu sự thay đổi chuỗi cung ứng và nắm bắt xu hướng toàn cầu.
Đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững các KCN, bà Virginia Foote cho rằng, các doanh nghiệp trong KCN cần tiếp cận nguồn năng lượng tái tạo và có công nghệ xử lý nước sạch hiệu quả. Bên cạnh đó, cần có cơ chế thúc đẩy các doanh nghiệp thực thi nghiêm túc, đồng bộ các quy định được đặt ra trong KCN để đạt hiệu quả cao, tránh tình trạng trong cùng một khu có doanh nghiệp làm, có doanh nghiệp không làm. Ngoài ra, các địa phương cung cấp cơ sở hạ tầng mềm, có chính sách thu hút nhân lực có tay nghề…; hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện và hoàn thiện thủ tục hành chính trong các lĩnh vực hải quan, thuế… thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
Mai PhươngCòn một tháng nữa mới kết thúc năm nhưng số thu thuế thu nhập cá nhân cuối tháng 11 ước đạt 106,9% dự toán, với 170.000 tỷ đồng.