Sở hữu trí tuệ trong EVFTA làm khó doanh nghiệp Việt?
Với mức độ cam kết khá cao về lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong EVFTA sẽ tạo ra những thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) là một trong hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới lớn nhất của Việt Nam được dự báo sẽ ảnh hưởng lớn đến thể chế pháp luật và kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới. Một trong những lĩnh vực của EVFTA được cho là sẽ có tác động trực tiếp và lớn tới hệ thống pháp luật Việt Nam là các cam kết trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Tham gia EVFTA, với những quy định về việc chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nghiêm minh hơn có thể khiến doanh nghiệp của Việt Nam nếu không nhận thức rõ nguy cơ, sẽ phải chịu gánh nặng đối với các thủ tục kiểm soát, đặc biệt khi bị rơi vào tranh chấp, kiện tụng.
Nhiều tiêu chuẩn gắt gao
TS Nguyễn Ngọc Hà, giảng viên Đại học Ngoại Thương Hà Nội nhấn mạnh, trong số các FTA mà Việt Nam là thành viên, EVFTA là một trong hai hiệp định có cam kết về sở hữu trí tuệ cao nhất. Riêng đối với EVFTA, hiệp định này hàm chứa một số quy định khác biệt so với các FTA khác.
“Có thể kể đến một số vấn đề như: Phụ lục 12-A chứa đựng 169 chỉ dẫn địa lý của EU và 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam mà hai bên cam kết bảo hộ đương nhiên, không cần phải thông qua các thủ tục thông thường; quy định về thiết lập cơ chế đăng ký và bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các nhóm hàng thuộc diện điều chỉnh, bao gồm rượu, đồ uống có cồn, nông sản, thực phẩm; nghĩa vụ của Việt Nam sau ba năm EVFTA có hiệu lực, phải gia nhập hai hiệp định của WIPO về quyền tác giả và về biểu diễn và bản ghi âm; quy định rộng hơn về các hành vi xâm phạm các biện pháp kỹ thuật bảo hộ quyền tác giả; nghĩa vụ của Việt Nam về gia nhập Hiệp định La Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp;…”, ông Hà nói.
Về vấn đề này, ông Chu Ngọc Anh - Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng nhấn mạnh rằng EVFTA cũng đặt ra một số tiêu chuẩn cao hơn pháp luật Việt Nam, trong đó có thể kể đến như bảo hộ 169 chỉ dẫn địa lý của EU với mức độ bảo hộ cao như mức độ mà pháp luật Việt Nam đang bảo hộ cho chỉ dẫn địa lý đối với rượu vang và rượu mạnh; hoặc gia nhập Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp trong vòng 2 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực…
Còn theo ông Trần Hữu Linh, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý thị trường (Bộ Công thương), không phải ngẫu nhiên mà sở hữu trí tuệ, chỉ dẫn địa lý là một trong những vấn đề khó đàm phán nhất trong EVFTA. Đồng thời, chương Sở hữu trí tuệ cũng là một trong những chương có dung lượng lớn nhất trong toàn hiệp định này.
"Chúng ta đều biết, EU là khu vực xuất khẩu các sản phẩm trí tuệ hàng đầu thế giới. Bởi lẽ đó, nhu cầu tăng cường bảo hộ cũng như thực thi việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ rất cao và được thực hiện nghiêm ngặt. Chưa hết, EU cũng đồng thời có chế độ bảo hộ đặc thù đối với chỉ dẫn địa lý và rất chú trọng việc bảo hộ loại quyền sở hữu trí tuệ này" - ông Linh phân tích.
Công tác thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ còn nhiều khó khăn
Tại Điều 5.6 của EVFTA quy định về các căn cứ yêu cầu chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu của Việt Nam nếu nhãn hiệu đó chưa được “sử dụng thật sự”, tuy nhiên khái niệm “sử dụng thật sự” lại chỉ tồn tại ở các nước châu Âu, chứ không tồn tại ở Việt Nam. Điều này dẫn đến công tác thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ sẽ rất khó khăn.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO & Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – cho biết: “Điều mà chúng tôi phát hiện ra không phải là vấn đề pháp luật hiện tại mà dường như vấn đề khó khăn hơn, thách thức hơn lại là công tác thực thi. Những quy định trên thực tế như thế nào để quyền các chủ thể sở hữu trí tuệ được bảo vệ theo mức hợp lý và hiệu quả nhất”.
Ngoài khó khăn trong công tác thực thi bảo hộ sở hữu trí tuệ, Việt Nam còn cần lấy ý kiến về việc nên xây dựng một văn bản riêng phù hợp cho hiệp định thương mại tự do này hay sửa văn bản pháp luật chung cho phù hợp với tất cả các hiệp định thương mại để đảm bảo sự phát triển chung cho toàn xã hội. Đây là việc các cơ quan hữu quan của Việt Nam cần phối hơp tốt hơn để thực hiện.
Bàn về giải pháp, bà Trang cho rằng các doanh nghiệp chủ thể quyền và đại diện sở hữu trí tuệ phải thay đổi nhận thức, nhận biết được các quyền mới và tham gia mạnh hơn vào quá trình nội luật hoá.
Nhiều khi các dự thảo luật được đăng trên cổng mãi không nhận được ý kiến nào, đến lúc thực thi rồi thấy có vấn đề mới lại bắt đầu có ý kiến”, bà Trang nêu thực tế.
PVTheo các chuyên gia, để duy trì và phát huy vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam cần áp dụng các chính sách đồng bộ hỗ trợ doanh nghiệp nội địa kết nối với doanh nghiệp FDI, đặc biệt là nâng cấp năng lực doanh nghiệp để đáp ứng các yêu cầu của chuỗi cung ứng toàn cầu.