Thái Bình: Tinh hoa làng nghề chạm bạc Đồng Xâm
Với lịch sử phát triển lâu đời, làng nghề chạm bạc Đồng Xâm (xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương) được biết đến là làng nghề truyền thống nổi tiếng của tỉnh Thái Bình. Đây là nơi lưu trữ, bảo tồn các giá trị văn hoá của dân tộc, gìn giữ nhiều sản phẩm chạm bạc có độ tinh xảo, tuyệt mỹ được làm nên từ đôi bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân làng Đồng Xâm.
Làng nghề chạm bạc Ðồng Xâm (tên cũ là Ðường Thâm) nằm ở bên hữu ngạn sông Ðồng Giang. Những ghi chép trong sách sử cho biết: Làng này hình thành vào cuối thời Trần-Hồ, cách chúng ta ngày nay trên 600 năm. Nhưng nghề chạm bạc ở đây thì mãi về sau mới xuất hiện. Làng hiện còn một am thờ và một tấm bia đá ở trong khu chùa Ðường (thôn Thượng Gia ngày nay). Ðó là một văn bia Tổ nghề (dựng năm 1689). Trên văn bia có ghi: "Hoàng triều Chính Hoà thập niên, Tổ phụ Nguyễn Kim Lâu (...) Bảo Long tụ lạc học nghệ, đáo Ðồng Xâm xứ kiến lập thập nhị phường kim hoàn truyền nghệ."
(Tạm dịch: Năm thứ mười dưới triều vua Chính Hoà (1689), vị tổ sư Nguyễn Kim Lâu vốn làm nghề vàng bạc ở Châu Bảo Long, tới xứ Ðồng Xâm lập ra mười hai phường để truyền nghề).
Nghề chạm bạc lúc bấy giờ, chỉ làm ra những sản phẩm đơn điệu bằng bạc như: khuyên tai, vòng cổ, dây Xà Tích, đồ đồng,… phục vụ cho những nhà khá giả thuộc tầng lớp thượng lưu thời phong kiến. Trải qua nhiều năm, nghề chạm bạc phát triển trở thành nghề mỹ nghệ chuyên chạm khắc những đồ gia dụng bằng đồng, đồ trang sức bằng vàng, bạc,… Người làng Đồng Xâm làm tại quê, đến khi có sản phẩm thì đem đi bán, có cả người mang đồ nghề đi làm ở mọi nơi.
Để làm ra một sản phẩm chạm bạc hoàn chỉnh, cần tới 10 công đoạn khác nhau. Trong đó quan trọng nhất là các công đoạn: trơn (cắt xẻ nguyên liệu), đấu (hàn các chi tiết), đậu (chạm những họa tiết hoa văn) và chạm (kỹ thuật quyết định sự tinh xảo hay không của sản phẩm). Với nghề chạm bạc, chạm là công đoạn đòi hỏi sự tập trung nhất, đòi hỏi nghệ nhân phải hết sức khéo léo, không được phép cho mình sai dù chỉ một chi tiết nhỏ, nếu không, toàn bộ sản phẩm đó coi như phải bỏ, phải làm lại từ đầu.
Mặc dù hiện nay, đã có máy móc hiện đại hỗ trợ được phần nào, nhưng nghề chạm bạc ở làng Đồng Xâm vẫn có những công đoạn nhất định phải do con người thực hiện. Bởi nó đòi hỏi sự tỉ mỉ, kỹ thuật và đôi mắt thẩm mỹ, đặc biệt là có đôi bàn tay khéo léo, điêu luyện của người thợ mới làm được. Chính vì thế, những người thợ Đồng Xâm đã tạo ra các sản phẩm chạm bạc chất lượng khiến thương hiệu của làng nổi tiếng khắp nơi.
Bức tranh chạm đồng do cơ sở Thái Úy sản xuất - Ảnh: Thành Trung
Ông Triệu Đăng Khoa - Giám đốc HTX Đồng Xâm cho biết: "Làng nghề thời xưa, chủ yếu sản xuất nhỏ lẻ, manh mún đa phần là thủ công. Ông cha ta thường chạm bạc các sản phẩm trang sức, đồ thờ cúng, hàng lưu niệm... nên nghề chưa phát triển. Đến thời nay, bất kỳ sản phẩm gì người Đồng Xâm cũng có thể làm được từ kim hoàn như: vàng, bạc, đồng theo nhu cầu của thị trường, do đó sản phẩm làng nghề rất đa dạng. Từ các mặt hàng phục vụ thị trường nội địa như: đồ trang sức, hàng phục vụ cho đạo Phật, Công giáo thì người thợ trong làng còn chạm trổ những bức tranh danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở trong nước trên nhiều chất liệu, đặc biệt là từ lá đồng... Đến nay, những người thợ đã ghi dấu ấn trong nghề bằng những sản phẩm từ đôi bàn tay tay khéo léo, điêu luyện ở nhiều đình, chùa, công trình nổi tiếng trong cả nước như: chùa Bái Đính, chùa Tam Chúc, chùa Ba Vàng,…".
Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử, nhưng trong làng chưa bao giờ ngưng tiếng đục, tiếng hàn để tạo ra những sản phẩm với hoa văn tinh xảo. Sản phẩm ở làng nghề đều mang nét độc đáo riêng, nổi trội hẳn so với làng nghề ở nơi khác, từ kiểu dáng cho đến trang trí, các đồ án nổi tiếng ra cả thế giới.
Những sản phẩm đang trong quá trình hoàn thiện
Ngày nay, ở làng chạm bạc Đồng Xâm vẫn có nhiều cơ sở sản xuất giữ được thương hiệu cho làng nghề. Điển hình nhất là cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Thái Úy ở thôn Hữu Bộc, xã Hồng Thái. Theo ông Tạ Văn Úy - nghệ nhân đồng thời là chủ cơ sở chia sẻ: "Bản thân tôi, là một nghệ nhân lâu năm của làng nghề. Với mong muốn lưu giữ và sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo, cơ sở của tôi luôn không ngừng học hỏi và tập trung nâng cao tay nghề. Nhiều sản phẩm của cơ sở được khách hàng yêu thích và đánh giá cao bởi rất phù hợp để trang trí như: tranh, đồ thờ, chạm khắc đồng vào đồng hồ…".
Trao đổi với PV, ông Vũ Ngọc Huyền - Phó Chủ tịch UBND xã Hồng Thái cho biết: Nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống của làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, chúng tôi luôn tạo điều kiện để người dân tiếp cận với nguồn vốn có lãi suất ưu đãi, hỗ trợ cho việc phát triển làng nghề. Mới đây, tỉnh Thái Bình đã trao tặng cho làng nghề nhà trưng bày sản phẩm và bằng công nhận làng nghề đạt danh hiệu "Làng nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp".
Hiện nay, nghề chạm bạc đã thu hút đến 70% số lao động của xã Hồng Thái, có tới 150 cơ sở sản xuất, khoảng 2000 lao động có thu nhập ổn định. Người làm nghề trong làng không bao giờ hết việc. Phần lớn, người trẻ tuổi đi làm nghề ở nơi xa trong các tiệm vàng bạc ở địa phương khác, số còn lại là những người lớn tuổi làm tại địa phương. Nhờ có nghề chạm bạc, đời sống của người dân ở làng nghề được cải thiện rõ rệt và phong trào xây dựng nông thôn mới phát triển.
Để xây dựng nông thôn mới bền vững, không chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp mà cần phát triển thêm mô hình tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là bảo tồn và phát triển làng nghề chạm bạc Đồng Xâm. Trong thời gian tới, Phó Chủ tịch UBND xã Hồng Thái cho biết sẽ mở thêm nhiều lớp truyền nghề, bồi dưỡng kiến thức nghề cho thế hệ trẻ. Đẩy mạnh tuyên truyền về đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ cho người dân ở làng nghề để hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra.
Nhờ phát triển nghề mà người dân trong làng ngày càng khá giả. Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển du lịch làng nghề, thời gian tới hy vọng làng nghề chạm bạc Đồng Xâm không chỉ mang lại giá trị về kinh tế mà còn là điểm đến ấn tượng thu hút du khách thập phương về tham quan.
Thành Trung - Kim DungDự kiến kim ngạch xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 2 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu nỗ lực khắc phục được những hạn chế, năm 2025, Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này lên mức 4 tỷ USD và đạt 6 tỷ USD vào năm 2030.