Thanh Hóa: Xóa bỏ điểm nghẽn trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Xóa bỏ điểm nghẽn trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao (CNC), nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm đang là hướng đi trọng tâm của tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua.
Muốn phát triển nông nghiệp CNC tỉnh Thanh Hóa cần có giải pháp xóa bỏ điểm nghẽn, khơi thông và xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa đi vào chiều sâu, thực chất, bền vững, ứng dụng khoa học kỹ thuật gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, nhằm nâng cao chất lượng, giá trị, tạo sức bật mới cho sản phẩm...

Trong năm 2024 và nửa đầu năm 2025, Thanh Hóa đã triển khai thí điểm dự án tạo tín chỉ carbon trong sản xuất lúa gạo tại xã Yên Phong, huyện Yên Định với hơn 90 ha, giúp giảm 4,84 tấn CO2/ha.
Những kết quả đạt được
Hiện nay, toàn tỉnh có 2.897,2ha đất sản xuất nông nghiệp CNC đạt tiêu chuẩn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Trong đó, có 228ha sản xuất trong nhà màng, nhà lưới và hơn 13ha đạt chứng nhận hữu cơ quốc tế, được quản lý nhiệt độ, nước tưới, dinh dưỡng tự động hoặc bán tự động, giám sát bằng công nghệ thông tin...
Diện tích còn lại sản xuất nông nghiệp theo hướng CNC, với một khâu hoặc một số khâu trong sản xuất được ứng dụng công nghệ, như: sử dụng giống mới, giống tiến bộ kỹ thuật, biến đổi gen; sử dụng biện pháp canh tác mới và quy trình quản lý sản xuất tiên tiến theo hướng hữu cơ, VietGAP. Thanh Hóa phấn đấu đến năm 2030, có 50.000 ha đất nông nghiệp đạt chứng nhận VietGAP hoặc được canh tác theo phương pháp hữu cơ.
Có 645 sản phẩm OCOP xếp thứ 3 cả nước, trên 1.300 cơ sở chế biến nông - lâm - thủy sản. Trong đó khoảng 190 cơ sở nhỏ và vừa đã được đầu tư công nghệ hiện đại. Trên 80 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất đã tham gia chuỗi tiêu thụ tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…
Hiện tại, với 112 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, nông nghiệp Thanh Hóa đã cung cấp gần 620 tấn thực phẩm ra thị trường mỗi năm. 36 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đến 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, với kim ngạch trung bình 290 - 310 triệu USD/năm.

Diện tích rau thủy canh của HTX dịch vụ nông nghiệp Phú Lộc, xã Hoa Lộc được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP.
Việc ứng dụng CNC trong sản xuất nông nghiệp đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần đáng kể làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp. Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, ứng dụng CNC trong trồng trọt cho lợi nhuận trung bình gấp 2,5 đến 3 lần so với sản xuất thông thường. Năm 2025, tỉnh Thanh Hóa đặt mục tiêu nâng tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng CNC đạt ít nhất 20% trong tổng giá trị ngành nông nghiệp.
Thực trạng sản xuất nông nghiệp CNC
Tuy nhiên, việc phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, như: công tác tích tụ, tập trung đất đai, những cánh đồng mẫu lớn còn thiếu; hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp CNC chưa đồng bộ; thị trường tiêu thụ chưa đủ mạnh và ổn định; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia cho nông sản CNC chưa rõ ràng; công tác thu hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm theo hướng hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng CNC còn gặp nhiều khó khăn; chất lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn thấp; công tác chuyển đổi số, quảng bá sản phẩm, thương hiệu trên sàn thương mại điện tử chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng...
Thời gian qua, phát triển CNC trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu mới thực hiện ở một vài khâu như tưới nhỏ giọt, tưới phun sương, canh tác cây trồng trong nhà màng, nhà lưới... Khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến vẫn áp dụng công nghệ thủ công nên năng suất, chất lượng nông sản còn thấp. Nhiều địa phương, nông nghiệp CNC chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.

Diện tích sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà lưới trong các trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Khó khăn lớn nhất trong phát triển sản nông nghiệp CNC ở nhiều địa phương là diện tích đất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ. Kinh phí đầu tư cao, bình quân 1ha nhà màng, nhà lưới và các thiết bị ứng dụng CNC trong sản xuất khoảng 350 triệu đồng. Thời gian để các tổ chức, cá nhân, HTX thuê đất ngắn nên khó thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng CNC, nhất là những doanh nghiệp lớn... Các điểm nghẽn trên cần được nhận diện và có giải pháp khơi thông để tạo đà cho nông nghiệp CNC của tỉnh Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ.
Gỡ điểm nghẽn
Trước thực trạng trên, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển nông nghiệp CNC, ngành nông nghiệp Thanh Hóa đang tích cực phối hợp với các xã, phường, thực hiện có hiệu quả chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng CNC. Đồng thời, tổ chức khảo sát, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc và đề xuất điều chỉnh, bổ sung, xây dựng các nội dung chính sách sao cho phù hợp với thực tế của từng địa phương.
Trong đó, cần quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở cung - cầu của thị trường; các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với người dân và giữa người dân nhằm hình thành mối liên kết sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm…
Trong quy hoạch phát triển nông nghiệp CNC cần tránh tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, dàn trải trong khi nguồn lực đầu tư hạn hẹp. Phải tạo ra được những cánh đồng mẫu lớn, ứng dụng khoa học kỹ thuật một cách đồng bộ, bài bản, tuân thủ nghiêm ngặt theo đúng quy trình. Đồng thời, phải xây dựng một hệ thộng pháp lý đảm bảo, có chế tài đủ mạnh để bảo vệ nhà đầu tư, nhà sản xuất, ràng buộc trách nhiệm nhà thương mại về truy xuất nguồn gốc nông sản.

Các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao được trưng bày tại hội chợ thương mại, các sàn thương mại điện tử để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, giúp người tiêu dùng có thể tiếp cận sản phẩm một cách nhanh chóng, tiện lợi và hiệu quả.
Tổ chức lại sản xuất là yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Trong đó, đầu tư và phát triển khoa học công nghệ, tăng cường ứng dụng những công nghệ này vào sản xuất nông nghiệp mới là nội dung cốt lõi trong tái cấu trúc nông nghiệp. Do vậy, cần phải tập trung đào tạo, tập huấn kỹ thuật và chuyển giao cho doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm trong phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC.
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, sản phẩm chủ lực và có lợi thế của từng địa phương, ngành nông nghiệp xây dựng mô hình nông nghiệp sạch, ứng dụng CNC gắn với xây dựng thương hiệu làm cơ sở nhân ra diện rộng. Thông qua tổ chức các hội chợ thương mại, các sàn thương mại điện tử để quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Từ đó, giúp người tiêu dùng có thể tiếp cận sản phẩm một cách nhanh chóng, tiện lợi và hiệu quả.
Chú trọng đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển HTX nông nghiệp, các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị; thu hút, thành lập mới, kêu gọi doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, nhất là đầu tư trực tiếp vào sản xuất nông nghiệp CNC.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để Nhân dân hiểu về vai trò và xác định việc tích tụ, tập trung ruộng đất là khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp cả trước mắt và lâu dài, làm tiền đề cho việc áp dụng CNC vào sản xuất. Qua đó, để người dân không còn tâm lý hoài nghi bị mất đất, giữ đất, dẫn đến tình trạng manh mún, nhỏ lẻ; khó ứng dụng khoa học - công nghệ, sản xuất không hiệu quả song vẫn không chuyển nhượng hoặc cho thuê đất.
Để tháo gỡ những điểm nghẽn trên, rất cần những cơ chế, chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp và hộ nông dân sản xuất nông nghiệp CNC về nguồn vốn, tập trung đất đai theo nguyên tắc thị trường, đào tạo nhân lực, tạo thuận lợi về thủ tục hành chính… Cùng với đó, các địa phương cần tiếp tục dành nguồn lực, tạo điều kiện cho nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Yến Hoàng
Tối 3/9, tại Bảo tàng Nghệ An - Xô viết Nghệ Tĩnh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Nghệ An phối hợp với Bảo tàng tổ chức Lễ tưởng niệm, cầu siêu các liệt sĩ đã hy sinh tại Nhà lao Vinh và trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931).