Thí điểm đưa người lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc
Trên cơ sở quan hệ hợp tác sẵn có giữa địa phương Việt Nam với địa phương Hàn Quốc, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ký kết Thỏa thuận hợp tác về đưa người lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc. Ưu tiên tuyển chọn đối tượng chính sách, nguồn kinh phí do ngân sách địa phương đảm bảo.
Thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện thí điểm đưa người lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc theo Thỏa thuận hợp tác giữa các địa phương của hai nước từ ngày 01/01/2020 đến khi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) được thông qua và có hiệu lực, sau khi thống nhất với các cơ quan liên quan, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn việc ký kết, thực hiện Thỏa thuận với địa phương của Hàn Quốc về đưa người lao động đi làm việc thời vụ. Thỏa thuận hợp tác về đưa người lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc phải phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật Hàn Quốc và có những nội dung chính sau đây:
- Mục đích và phạm vi hợp tác (lĩnh vực đưa lao động đi làm việc thời vụ; ví dụ: nông nghiệp hoặc ngư nghiệp,...).
- Cơ quan thực hiện (cơ quan cấp tỉnh hoặc cơ quan được phân cấp theo quy định tại Khoản 1 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương).
- Đối tượng và tiêu chuẩn tuyển chọn lao động (các yêu cầu đối với người lao động): tuổi, giới tính, nghề nghiệp,...
- Chế độ đối với người lao động (gồm thời gian làm việc, nghỉ ngơi; điều kiện làm việc, ăn, ở, sinh hoạt; tiền lương; bảo hiểm; chi phí khám, chữa bệnh; điều khoản về chấm dứt hợp đồng trước hạn...).
- Trách nhiệm của các bên ký kết (bao gồm điều khoản về việc xử lý, giải quyết các vấn đề phát sinh).
- Chi phí của người lao động: Cơ quan cấp tỉnh thống nhất với phía Hàn Quốc về trách nhiệm, mức chi trả các chi phí để người lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc (phí đào tạo tiếng Hàn và bồi dưỡng kiến thức cần thiết, phí giao thông, phí làm hộ chiếu và xin thị thực,…) và quy định cụ thể trong Thỏa thuận.
- Thời hạn của Thỏa thuận: Các bên thống nhất về thời hạn Thỏa thuận, đến khi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) có hiệu lực, dự kiến được thông qua vào kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV và có hiệu lực bắt đầu từ tháng 07/2021.
- Tuyển chọn đúng đối tượng đáp ứng các yêu cầu đối với người lao động trong Thỏa thuận ký kết.
- Đặc biệt ưu tiên tuyển chọn người lao động thuộc đối tượng chính sách là người dân tộc thiểu số, hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người có công với cách mạng tại địa phương. Việc hỗ trợ chi phí cho các đối tượng nêu trên thực hiện theo quy định hiện hành tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm; Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2015/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 15/6/2016 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều về hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP. Nguồn kinh phí do ngân sách địa phương đảm bảo.
- Cơ quan thực hiện báo cáo danh sách người lao động làm việc tại Hàn Quốc theo mẫu tại Phụ lục số 2 gửi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Cục Quản lý động ngoài nước) và Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc trong thời hạn năm (5) ngày kể từ ngày người lao động xuất cảnh đi làm việc tại Hàn Quốc và báo cáo gửi cơ quan cấp tỉnh và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Cục Quản lý lao động ngoài nước) sau khi người lao động kết thúc làm việc theo thời vụ tại Hàn Quốc theo mẫu tại Phụ lục số 3.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Cục Quản lý lao động ngoài nước) cũng nêu rõ, trong quá trình triển khai, nếu có khó khăn, vướng mắc đề nghị phản ánh về để được hướng dẫn./.
Ng.HươngTrong báo cáo cập nhật kinh tế mới nhất về Việt Nam, Standard Chartered dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức vừa phải, lãi suất được duy trì ở mức thấp. GDP của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng trưởng ở mức 6,8% năm 2024, nhờ xuất khẩu và công nghiệp giữ đà tích cực.