Tín dụng toàn nền kinh tế đạt hơn 13 triệu tỷ đồng

Tài chính - Đầu tư
10:19 AM 08/12/2023

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến ngày 30/11/2023, tín dụng đối với nền kinh tế đạt hơn 13 triệu tỷ đồng, tăng 9,15% so với cuối năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 12,02%).

Trong thời qua, NHNN và hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) đã chủ động triển khai các chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

Qua đó, góp phần khơi thông dòng vốn đầu tư và kinh doanh, tích cực giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Đồng thời, duy trì ổn định tỷ giá, ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm thanh khoản của cả hệ thống tổ chức tín dụng và giữ được an toàn hệ thống.

Tín dụng toàn nền kinh tế đạt hơn 13 triệu tỷ đồng- Ảnh 1.

Đến ngày 30/11/2023, tín dụng đối với nền kinh tế đạt hơn 13 triệu tỷ đồng, tăng 9,15% so với cuối năm 2022. Ảnh: Internet

Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến ngày 30/11, tín dụng đối với nền kinh tế đạt hơn 13 triệu tỷ đồng, tăng 9,15% so với cuối năm 2022 (cùng kỳ 2022 tăng 12,02%). Hiện lãi suất huy động, cho vay đã giảm bình quân 2-3% so với cuối năm 2022 và dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

Về tín dụng theo ngành kinh tế, đến cuối tháng 10/2023, dư nợ ngành nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 918.600 tỷ đồng (tăng 3,1,7%, chiếm 7,17%), ngành công nghiệp và xây dựng đạt hơn 3,32 triệu tỷ đồng (tăng 7,31%, chiếm 25,94%), ngành dịch vụ đạt gần 8,6 triệu tỷ đồng (tăng 7,9%, chiếm 66,88%).

Theo lĩnh vực ưu tiên (đến cuối tháng 10/2023), tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt trên 3,1 triệu tỷ đồng, chiếm 24,52% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tăng 6,33% so với cuối năm 2022. Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt trên 2,34 triệu tỷ đồng, chiếm 18,34%, tăng 7,46% so với cuối năm 2022. Tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu đạt khoảng 313.000 tỷ đồng, chiếm 2,45%, tăng 8,51% so với cuối năm 2022. Tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đạt trên 350.000 tỷ đồng, chiếm 2,78%, tăng 20,09% so với cuối năm 2022. Tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao khoảng 45.600 tỷ đồng, chiếm 0,36%, tăng 18,44% so với cuối năm 2022.

Theo Ngân hàng Nhà nước, sau 7 tháng thực hiện chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN, đến ngày 31/10, tổng dư nợ (gốc, lãi) được tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là 158.694 tỷ đồng, với 167.220 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ.

Số dư nợ được cơ cấu tăng đều qua các tháng và hiện không phát sinh khó khăn, vướng mắc. Qua các ý kiến phản hồi cho thấy, Thông tư số 02/2023/TT-NHNN phù hợp với điều kiện, bối cảnh nền kinh tế, thể hiện sự chỉ đạo quyết liệt, đúng đắn, kịp thời của chính sách. Hiện NHNN đang nghiên cứu và sẽ có báo cáo Chính phủ về việc kéo dài thời gian thực hiện Thông tư này để phù hợp với tình hình thực tiễn.

Việc giải ngân gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ đã được triển khai đã được tích cực triển khai tại 4 NHTM. Đến nay, các NHTM này đã cam kết cấp tín dụng cho 6 dự án với số tiền cam kết là 1.986 tỷ đồng, đã giải ngân cho 4 dự án với số tiền là 143 tỷ đồng.

Về chương trình tín dụng 20.000 tỷ đồng cho công nhân, đến hết tháng 11/2023, hệ thống tổ chức tín dụng đã thực hiện giải ngân đạt khoảng 9.386 tỷ đồng.

Thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh theo Nghị định 31 năm 2022, doanh số hỗ trợ lãi suất đạt khoảng 207.000 tỷ đồng, dư nợ hỗ trợ lãi suất khoảng gần 64.000 tỷ đồng, số tiền hỗ trợ lãi suất lũy kế từ đầu chương trình đạt hơn 980 tỷ đồng.

Ngân hàng Nhà nước cũng điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, giữ ổn định được thị trường ngoại tệ và hạn chế được các biến động lớn trong ngắn hạn của tỷ giá, góp phần tiếp tục xây dựng môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài. Đồng Việt Nam chỉ mất giá khoảng trên 2%, tương đối ổn định so với các đồng tiền khác trong khu vực.

Huyền My (t/h)
Ý kiến của bạn