Vai trò chuyển đổi số trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn
Chuyển đổi số sẽ là xu thế dạy học mới trong trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Việc kết hợp linh hoạt giữa hình thức dạy học trực tuyến và hình thức dạy học truyền thống đối với các môn khoa học xã hội và nhân văn có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin sẽ giúp phân hóa trình độ người học, cá nhân hóa việc học.
Cùng với sự phát triển của công nghệ và xu thế hội nhập với nền giáo dục thế giới, với khả năng linh hoạt, tương tác, tự học, chuyển đổi số góp phần đổi mới phương pháp dạy học, cải tiến và nâng cao tính tích cực về chất lượng đào tạo toàn diện.
Trong nội dung, chương trình đào tạo của các trường đại học ở nước ta, các môn khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và niềm tin cộng sản chủ nghĩa, xây dựng bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách cho sinh viên. Đồng thời, trang bị kiến thức giúp sinh viên có cơ sở để đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng.
Tuy nhiên, các môn KHXH&NV thường được xem là những môn lý luận khô khan, không hấp dẫn như những môn học khác, không kích thích được người học. Nguyên nhân của vấn đề này có thể xuất phát từ phía giảng viên và cả từ sinh viên. Do đó, để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn KHXH&NV ở các trường đại học cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số (CĐS) là biện pháp quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.
Vai trò chuyển đổi số trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn
Ứng dụng CĐS sẽ tạo ra mô hình giáo dục thông minh, từ đó giúp việc học, hấp thụ kiến thức của người học trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Sự bùng nổ của các nền tảng công nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi để truyền đạt kiến thức và phát triển được khả năng tự học của người học mà không bị giới hạn về thời gian cũng như không gian.
Hiện tại, CĐS trong giáo dục được ứng dụng dưới 3 hình thức chính là: ứng dụng công nghệ trong phương pháp giảng dạy: lớp học thông minh, lập trình… vào việc giảng dạy; ứng dụng công nghệ trong quản lý: công cụ vận hành, quản lý; ứng dụng công nghệ trong lớp học, công cụ giảng dạy, cơ sở vật chất.
Chuyển đổi số giúp giảng viên tiếp cận, khai thác kho tài liệu để phục vụ quá trình giảng dạy
Trước đây, hoạt động khai thác, sử dụng tài liệu phục vụ giảng dạy phần lớn phải phụ thuộc vào điều kiện của thư viện ở cơ sở đào tạo thì nay giảng viên và sinh viên đã có thể tiếp cận với thư viện số, truy cập nhiều trang web tài liệu miễn phí hoặc mất một khoản phí nhỏ để đọc và tải về những tài liệu cần thiết cho môn học, truy xuất nguồn gốc của các câu trích dẫn trong những tác phẩm kinh điển... Hệ thống tài liệu phong phú, đa dạng đã mở ra cơ hội tiếp cận với kho tàng tri thức khổng lồ của nhân loại qua các thời kỳ lịch sử. Bài giảng của giảng viên nhờ đó sinh động, phong phú và mang tính trực quan.
Trong kỷ nguyên của IoT (Internet of Things), chỉ cần có một thiết bị điện tử có thể truy cập Internet là giảng viên, sinh viên đều có thể tìm kiếm thông tin, chia sẻ thông tin, tương tác lẫn nhau. Cũng nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ mới mà việc tiếp cận với những tiêu chuẩn nghiên cứu khoa học thế giới, tìm hiểu và thực hiện viết bài cho các tạp chí quốc tế đang được giảng viên hết sức quan tâm. Nhờ đó, mở ra cơ hội nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên, nâng cao chỉ số đánh giá của trường đại học trong bảng xếp hạng các trường ở phạm vi khu vực hoặc quốc tế.
Chuyển đổi số thúc đẩy đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy của giảng viên ở các trường đại học
Đối với nội dung giảng dạy đòi hỏi giảng viên giảng dạy đại học tập trung vào các môn học cung cấp kiến thức chung, kiến thức cơ sở ngành và kiến thức chuyên ngành. Trong giai đoạn trước, quá trình giảng dạy thường rơi vào tình trạng "cháy giáo án" vì thời gian trên lớp không đủ để giảng viên truyền tải hết nội dung lý thuyết của môn học.
Song trong thời đại mới, giảng viên hoàn toàn có thể áp dụng thành tựu của khoa học công nghệ mới trong quản lý lớp học, phân chia nội dung giảng, nội dung thảo luận, nội dung tự học và kiểm soát các hoạt động học tập của sinh viên thông qua ứng dụng kahoot.it, pollev.com… Giảng viên cũng có thể sử dụng thực tế ảo, mạng xã hội, điện toán đám mây… để làm sinh động nội dung mà mình muốn truyền tải đến người học, đồng thời cũng có thể liên kết đến nhiều nội dung học tập khác có liên quan đến môn học.
Về phương pháp giảng dạy: Khoa học công nghệ cũng có thể hỗ trợ đắc lực cho giảng viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chuyển từ chủ yếu truyền đạt tri thức sang những phương pháp giảng dạy tích cực, có sử dụng các ứng dụng hiện đại như Prezi, Google drive, Top hat, Pandora… Những ứng dụng này giúp cho bài giảng thêm sinh động, kết hợp được nhiều cách thức tương tác đến người học khác nhau thông qua nghe, nhìn, cảm nhận, từ đó sinh viên có thể phát huy tối đa các năng lực nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo từ chính phương pháp mà giảng viên cung cấp cho họ.
Chuyển đổi số giúp đa dạng hóa hình thức giảng dạy và học tập, tạo ra cơ hội học tập không giới hạn cho người học
Giáo dục trực tuyến đang ngày càng phổ biến ở nước ta nhằm đáp ứng nhu cầu học tập linh hoạt về thời gian và địa điểm của người học. Các giảng viên có thể sử dụng công nghệ để thiết kế bài giảng trình chiếu, cũng có thể thiết kế những video dạy học, thực hiện thí nghiệm, thực hành, diễn thuyết… Công nghệ giúp tri thức, kinh nghiệm của người thầy không chỉ gói gọn trong khuôn viên trường đại học mà có thể được phổ biến rộng rãi toàn cầu. Điều này vừa đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người học, vừa tạo thêm những cơ hội về việc làm, thu nhập cho giảng viên.
Trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các trường đại học đang từng bước CĐS trong giáo dục, đào tạo nói chung và trong giảng dạy các môn KHXH&NV nói riêng. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho dạy và học các môn KHXH&NV luôn được chú trọng. Đồng thời, các trường đại học thường xuyên đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức dạy và học các môn KHXH&NV với nhiều hoạt động hướng tới việc bồi dưỡng và nâng cao năng lực công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ của cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu CĐS.
Các trường đại học đã tập trung CĐS vào trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá gồm số hóa các học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng E-learning, ngân hàng câu hỏi trác nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến. Đội ngũ giảng viên đã chú trọng số hóa bài giảng, ứng dụng các phần mềm vào xây dựng bài giảng các môn KHXH&NV, đổi mới cách thức, phương pháp giảng dạy, kỹ thuật quản lý lớp học, tương tác với người học sang không gian số, khai thác công nghệ thông tin để tổ chức giảng dạy các môn KHXH&NV. Bên cạnh đó, toàn bộ dữ liệu về quá trình học tập của người học cũng được theo dõi và lưu trữ bằng công nghệ chứ không phải thông qua hệ thống hồ sơ sổ sách thông thường.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả chuyển biến tích cực, quá trình chuyển đổi hoá trong giáo dục và đào tạo nói chung, trong giảng dạy các môn KHXH&NV nói riêng trong các trường đại học ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập: Hình thức giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, thiết kế, khai thác các phần mềm vào dạy học và kiểm tra đánh giá các môn KHXH&NV ở các trường đại học hiện nay về cơ bản thiếu đồng bộ; hoạt động giảng dạy bằng hình thức trực tiếp là chủ yếu, chỉ khi dịch Covid bùng phát mạnh thì các trường đại học phải chuyển sang hình thức dạy trực tuyến. Về hình thức kiểm tra đánh giá, hiện tại đã có hình thức thi trên máy tính nối mạng trên nền tảng phần mềm hỗ trợ thi, sát hạch. Như vậy, có thể thấy rằng việc triển khai CĐS trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở các trường đại học hiện nay còn chưa đồng bộ.
Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng chuyển đổi số trong giảng dạy ở các trường đại học hiện nay
Trước hết, giáo dục, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của CĐS trong giảng dạy các môn KHXH&NV ở các trường đại học. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về thực hiện CĐS trong giáo dục, đào tạo sự đồng bộ của các cấp, ngành trong quản lý chất lượng đào tạo của các trường đại học ở Việt Nam. Tập trung giáo dục đến cán bộ, giảng viên, nhân viên về vai trò, sự cần thiết và tầm quan trọng của CĐS trong giảng dạy các môn KHXH&NV, cùng nhau xây dựng văn hóa số trong giáo dục, đào tạo nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy các môn KHXH&NV tại các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
Tiếp theo, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về công nghệ thông tin cho cán bộ quản lý, giảng viên, đáp ứng yêu cầu CĐS. Từng giảng viên phải không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, tích cực học tập trau dồi kỹ năng sử dụng phương tiện, thiết bị điện tử, máy tính, liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin cho việc giảng dạy. Triệt để thay đổi phương pháp giảng dạy từ truyền thụ kiến thức một chiều, bị động sang áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại, lấy người học làm trung tâm nhằm phát huy tính tự học, tự nghiên cứu của học viên, chuyển từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất, nhân cách người học đáp ứng tốt yêu cầu Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, chương trình, giáo trình, tài liệu, học liệu và mạng phục vụ đào tạo công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông và ứng dụng công nghệ thông tin. Chú trọng xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ theo hướng đồng bộ, tập trung, thống nhất, kết nối mạng internet, thiết bị công nghệ thông tin đảm bảo phục vụ tốt cho giảng dạy các môn KHXH&NV ở các trường đại học. Bảo đảm tốt hệ thống các thiết bị phần cứng như hệ thống máy móc, đường truyền internet.
Cuối cùng, tập trung phát triển học liệu số phục vụ giảng dạy các môn KHXH&NV, kiểm tra, đánh giá, tham khảo; hình thành kho học liệu số, học liệu mở chia sẻ dùng chung đáp ứng nhu cầu tự học tập suốt đời và trao đổi thông tin, linh hội tri thức của xã hội, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền; tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên các nền tảng số.
Thúc đẩy triển khai mạng xã hội giáo dục có sự kiểm soát và định hướng thống nhất, tạo môi trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình, giảng viên, sinh viên; phát triển các khóa học trực tuyến mở; triển khai hệ thống học tập trực tuyến dùng chung trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học hiện nay.
Phạm Hồng HảiKhi quy mô thương mại điện tử Việt Nam lên 100 tỷ USD vào 2030, rác nhựa từ lĩnh vực này có thể tới 800.000 tấn nếu không có giải pháp trong đóng gói, theo VECOM.