Việt Nam đứng thứ 4 về phí nhân công lao động trong khu vực

Đầu tư và Tiếp thị
10:51 AM 11/01/2022

Về chi phí nhân công lao động, vốn chiếm trung bình tới 55% tổng chi phí của các quốc gia, Việt Nam được xếp hạng là thị trường có giá cả hợp lý đứng thứ 4 sau Campuchia, Myanmar và Philippines với tổng chi phí nhân công trung bình là 108.196 USD mỗi tháng.

Mới đây, TMX - Công ty tư vấn chuyển đổi kinh doanh hàng đầu châu Á - Thái Bình Dương đã có báo cáo với tiêu đề "Sự dịch chuyển mạnh mẽ của chuỗi cung ứng - cận cảnh chi phí kinh doanh ở châu Á".

Báo cáo được triển khai trong bối cảnh các doanh nghiệp đang thúc đẩy đổi mới đa dạng hóa các địa điểm sản xuất và mở rộng hoạt động sang các thị trường mới ở châu Á trước sự ra đời của chiến lược "Trung Quốc + 1".

Việt Nam đứng thứ 4 về phí nhân công lao động trong khu vực - Ảnh 1.

Công nhân làm việc trong nhà máy Samsung ở tỉnh Bắc Ninh - Ảnh: L.TR.

Báo cáo cung cấp thông tin chuyên sâu về chi phí kinh doanh trung bình ở châu Á và khả năng cạnh tranh trong cuộc đua để trở thành địa điểm sản xuất tiềm năng nhất của 9 quốc gia bao gồm: Campuchia, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

Theo đó, Việt Nam là điểm đến phù hợp cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực như điện tử không đòi hỏi công nghệ quá cao trong sản xuất, hoặc lao động có tay nghề cao với chi phí vận hành bình quân thấp nhất trong khu vực, chỉ cao hơn Campuchia và Myanmar. Tổng chi phí vận hành trung bình của Việt Nam dao động từ 79.280 USD đến 209.087 USD mỗi tháng.

Trong khi đó, các quốc gia trong giai đoạn đầu gồm Campuchia và Myanmar là những địa điểm để đặt nền móng cơ sở sản xuất, phù hợp cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực như dệt may.

Singapore không có tên trong danh sách do chi phí cao, hơn gấp đôi chi phí của quốc gia đắt đỏ ở vị trí thứ hai, và khả năng cạnh tranh tổng thể của nước này. Do đó, Singapore trở thành lựa chọn hàng đầu cho các công ty sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn liên quan đến các quy trình phức tạp và yêu cầu tự động hóa cao.

Việt Nam đứng thứ 4 về phí nhân công lao động trong khu vực - Ảnh 2.

Ảnh minh họa

Việt Nam đứng thứ 5 về số điểm cạnh tranh so với các quốc gia khác xét về các lĩnh vực môi trường kinh doanh, nhân tài, hậu cần và số hóa, xếp sau Singapore, Malaysia, Ấn Độ và Thái Lan.

Về chi phí nhân công lao động, vốn chiếm trung bình tới 55% tổng chi phí của các quốc gia, Việt Nam được xếp hạng là thị trường có giá cả hợp lý đứng thứ 4  sau Campuchia, Myanmar và Philippines với tổng chi phí nhân công trung bình là 108.196 USD mỗi tháng.

Về chi phí thuê kho, yếu tố chiếm chi phí lớn thứ hai trong tổng chi phí của các quốc gia, Việt Nam được xếp hạng là thị trường có giá cả hợp lý thứ 4 với giá thuê trung bình là 5 USD/m2/tháng, sau Thái Lan, Myanmar và Campuchia, trong đó Campuchia là rẻ nhất.

Về chi phí hậu cần, Việt Nam được xếp vào nhóm thị trường "tiềm năng cao", đồng nghĩa với việc quốc gia này có chi phí hậu cần tương đối cao hơn nhưng có khả năng mở rộng hoạt động hậu cần tốt.

Để xác định khía cạnh này, các quốc gia được đánh giá thông qua hai yếu tố: chi phí vận chuyển quốc tế mỗi tháng của hậu cần và số điểm hiệu quả hoạt động hậu cần của quốc gia đó.

Ở tiện ích và viễn thông, chiếm khoảng 16% tổng chi phí ở hầu hết các quốc gia, Việt Nam được xếp hạng là quốc gia có chi phí điện thoại hợp lý nhất trong khi Campuchia có chi phí cao nhất.

Theo bà Megan Benger, Giám đốc về Chuỗi cung ứng tại TMX và là đồng tác giả của báo cáo, ngoài chi phí hoạt động trực tiếp, các doanh nghiệp cũng phải xem xét các yếu tố định tính như môi trường kinh doanh để có cái nhìn rõ ràng hơn về thị trường mà họ đang tìm kiếm để thiết lập hoặc mở rộng.

"Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy rằng mặc dù các thị trường ở châu Á hầu như ngang bằng nhau khi xét về khía cạnh định tính nhưng vẫn tồn tại sự khác biệt đáng kể giữa các thị trường", bà Megan Benger nói.

Bà nhấn mạnh, mỗi thị trường mang lại những lợi thế và hạn chế khác nhau nên các doanh nghiệp đều có cân nhắc riêng.

HM (T/h)
Ý kiến của bạn
Tổng nhu cầu vốn ngành năng lượng khoảng hơn 4.000 nghìn tỷ đồng Tổng nhu cầu vốn ngành năng lượng khoảng hơn 4.000 nghìn tỷ đồng

Theo Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng nhu cầu vốn đầu tư của ngành năng lượng toàn giai đoạn 2021 - 2030 cần khoảng 4.133 - 4.808 nghìn tỷ đồng.