Xuất khẩu chè giảm cả về lượng và giá trị
Dù xuất khẩu chè giảm về lượng, nhưng hiện tại Việt Nam đã trở thành quốc gia sản xuất, xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới, xuất khẩu tới 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo số liệu thống kê Cục Hải quan, trong tháng 2/2025, Việt Nam xuất khẩu được 7,66 nghìn tấn chè, với trị giá 11,91 triệu USD, giảm 21% về lượng và giảm 27,4% về trị giá so với tháng 1/2025. Lũy kế 2 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu chè đạt 17,33 nghìn tấn, trị giá 28,31 triệu USD, giảm 1,3% về lượng và giảm 2,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Về giá xuất khẩu, tháng 2/2025, giá bình quân xuất khẩu chè đạt mức 1.556 USD/tấn, giảm 8,1% so với tháng 1/2025 và giảm 0,8% so với tháng 2/2024. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, giá bình quân chè xuất khẩu đạt 1.633 USD/tấn, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Các thị trường có kim ngạch xuất khẩu chè tăng trong 2 tháng qua phải kể đến: Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ, Ả rập Xê út... nhưng lại giảm ở một số thị trường trọng điểm như: Pakistan, Hoa Kỳ, Malaysia...
Lũy kế hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 5.215 tấn chè sang Pakistan với giá trị 9,6 triệu USD, giảm 4,8% về lượng và giảm 11,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Dù xuất khẩu chè giảm về lượng, nhưng hiện tại Việt Nam đã trở thành quốc gia sản xuất, xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới, xuất khẩu tới 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo đánh giá của các chuyên gia và người tiêu dùng quốc tế, chất lượng sản phẩm chè Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào trên thế giới. Đặc biệt, nhiều sản phẩm chè xanh Việt Nam được rất nhiều khách hàng đánh giá cao như: chè xanh Mộc Châu, Thái Nguyên, Suối Giàng, Hà Giang, Ô long Lâm Đồng, các sản phẩm chè ướp hương sen, nhài...
Nói về định hướng phát triển ngành chè, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, cho biết ngành chè Việt Nam đã và đang phát triển theo hướng bền vững, áp dụng sản xuất theo các chứng nhận quốc tế. Điểm mạnh của Việt Nam là thổ nhưỡng khí hậu rất phù hợp sự phát triển của cây chè với nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao như: Thái Nguyên, Sơn La, Lâm Đồng. Đặc biệt, Việt Nam còn có gần 20.000 ha chè shan rừng. Nhiều vùng chè shan cổ thụ hàng trăm năm.
Tuy nhiên hiện giá bình quân chè xuất khẩu của nước ta chỉ bằng khoảng 65% so với mức giá bình quân của thế giới và thấp hơn nhiều so với giá bình quân xuất khẩu chè của Ấn Độ và Sri Lanka. Nguyên nhân bởi phần lớn chè xuất khẩu của Việt Nam là hàng thô, chưa qua chế biến sâu, đóng gói đơn giản, thiếu nhãn mác, thương hiệu rõ ràng trong khi hoạt động quảng bá cho chè Việt Nam cũng còn rất hạn chế.
Để tăng giá chè xuất khẩu, các chuyên gia cho rằng ngành chè cần tập trung phát triển các sản phẩm chè có giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, sản phẩm tinh chế cao cấp, được sử dụng trong các ngành thực phẩm, dược phẩm hoặc mỹ phẩm; tiếp tục đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm chè.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, tổng diện tích cây chè cả nước hiện nay khoảng 122.000 ha. Dự báo sản lượng xuất khẩu chè của Việt Nam đến năm 2030 đạt 156.000 tấn, tăng trung bình 0,83%/năm, chiếm khoảng 80% sản lượng chè sản xuất ra. Các thị trường chính của sản phẩm chè Việt Nam vẫn là Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia,… và đang chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao sang thị trường EU…
Huyền My (t/h)
Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc, vươn lên vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng năng lực đóng tàu thế giới, chiếm thị phần cao hơn một số nước có truyền thống lâu đời về đóng tàu.