Nửa đời buộc nắng cho thơ

Tiếp thị
09:17 AM 17/07/2023

Hơn 40 năm làm thơ, với hàng chục tập thơ là khoảng thời gian không phải là ngắn, Huy Trụ đã để lại một gia tài khá đồ sộ; anh đã gặt hái được nhiều thành công và có những đóng góp không nhỏ trên văn đàn thi ca Việt Nam. Mới đây Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã ấn hành tập thơ: "Buồn vui con chữ" gần như là tập hợp, đúc kết cả một đời sáng tác thi ca đặc sắc nhất của anh.

Có rất nhiều bài viết của các tác giả giới thiệu thơ của Huy Trụ đến với bạn đọc trong nước và quốc tế. Tất cả hầu như đều có chung một nhận xét: Thơ Huy Trụ đều rõ nét với hai nguồn cảm hứng chủ đạo, đó là tụng ca và tự bạch.

NỬA ĐỜI BUỘC NẮNG CHO THƠ - Ảnh 1.

Về mặt hình thức, Huy Trụ viết nhiều, viết hay, tìm tòi cách biểu đạt phong phú ở tất cả thể loại thơ, nhưng đặc sắc nhất vẫn là thơ lục bát. Trong tập thơ này, thể thơ lục bát vẫn là chủ đạo. Một thể thơ mà sự hàm súc đạt đến đỉnh. Đối tượng gây xao động nhiều nhất trong sáng tác của Huy Trụ là nhân vật "em" với nhiều cung bậc trữ tình. Bởi thế, anh luôn nói lên được cái riêng chung để người đọc thấy có một phần mình trong đó.

Đồng thời, tính triết lý trong thơ Huy Trụ nặng tính trải nghiệm, nhiều câu thơ gây được ấn tượng mạnh với người đọc. Anh xác tín nỗi ưu tư ấy bằng niềm yêu rất mãnh liệt; đó là niềm yêu được chạm tận đáy đời sống lứa đôi: "Mới hay dẫu chỉ một ngày/ Không em, nửa trái đất này chung chiêng" (trích trong bài Một ngày). Và Huy Trụ đã đi hết mình với phức điệu của cảm xúc ấy: "Mới hay còn chút tơ lòng/ Vẫn dăng mắc, vẫm thầm mong đợi người" (trích bài Tơ lòng).

Nỗi niềm trong thơ còn đan bện trong tầng sâu, ẩn mật của tư duy triết luận đã làm bệ phóng nghệ thuật thơ anh: bay bổng, lãng mạn mà chắt lọc, suy tư; giản dị, đời thường mà cảm động sâu sắc: "Tóc em thả suốt dọc đường/ Để anh toàn nhặt nỗi buồn vu vơ/ Nỗi buồn đứt nối câu thơ/ Nuôi anh sống với gió mưa một đời".

Ngay trang thơ đầu tiên, ta bắt gặp 6 câu thơ ẩn chứa triết lý, suy ngẫm: "Sợ gì ghế thấp… ghế cao/ Khi nằm xuống cỏ… ghế nào cũng xanh/ Sông đau cuộn thác… dâng ghềnh/ Người đau… con mắt coi khinh cả trời!..".

Thơ Huy Trụ luôn mượt mà bay bổng, nhưng khi viết về địa danh "Sông Mã xanh" thì thơ anh biến tấu, thay đổi, làm mới, biến chúng thành của riêng mình: "Chiều nay Sông mã rất xanh/ Con sông vốn rất hiền lành như ai…/ Bể dâu mấy thuở lở bồi/ Đời sông chẳng khác đời người lênh đênh". Anh tìm chữ giống như tìm vàng, dày công đãi cát và khi đã gặp, nó làm cho câu thơ rực sáng, găm vào trí nhớ người đọc, khiến người đọc day dứt: "Thơ là rượu của thế gian/ Phải đâu nước lã… rót tràn mời nhau/ Để đời nhớ được một câu/ Bạc đầu người viết… chắc đâu đã thành" (trích trong bài Gửi bạn làm thơ).

Mặt khác, thơ Huy Trụ luôn có chiều sâu cảm xúc, chủ đề đa dạng, thơ anh luôn có sự vận động con chữ tạo hình mới lạ. Đó là hình ảnh với sắc màu có chiều sâu gây ấn tượng. Có lúc trải hồn quê bên dòng sông hiền hòa, là con đê cỏ, là bánh đúc, bánh đa… 

NỬA ĐỜI BUỘC NẮNG CHO THƠ - Ảnh 2.

Mặc dù cảm xúc đắm đuối, mơ mộng, si tình là thế, nhưng ẩn bên trong dòng chảy ấy là chiều sâu của suy nghiệm, trí tuệ. Các chủ đề về tình yêu, hạnh phúc, vẻ đẹp thiên nhiên, quê hương, đất nước là dòng chảy xuyên suốt trong thơ anh. Đấy cũng là hương vị chung của thơ Huy Trụ. Từ những những mạch nguồn ấy, cha mẹ, quê hương luôn là niềm thi hứng lớn lao cho anh. 

Trong không gian nghệ thuật của Huy Trụ còn là ẩn dụ suy tư và chiêm nghiệm, cảm xúc thơ dâng đầy từ bản thể nhưng có giá trị triết mỹ về nghệ thuật cao. Quan trọng hơn, từ đó gợi lên vẻ đẹp về niềm tin mà thi ca mang đến cho con người; nhà thơ xác tín: "Cái danh đâu chỉ mà chơi/ Càng không thể để tiếng cười điêu toa…/ Chả chi cũng gọi là nhà/ Cái hương phải thật, cái hoa phải nồng" (trích bài Ngôi chùa).

Trở lại đề tài Sông Mã, có lẽ trong tất cả các nhà thơ viết về sông Mã, Huy Trụ là người mang trong mình niềm trắc ẩn thầm kín sâu xa nhất. Và đáng chú ý nhất là sự bay bỗng và đầy mê đắm trong thơ Huy Trụ về nhân tình thế thái và tình yêu; được thoát ra từ một hồn thơ đa cảm mà rất đỗi tinh tế, vì thế, "Sông Mã" đã khắc họa một cái tôi trữ tình đậm chất Huy Trụ, một tình yêu với quê hương đất nước. 

Cái tôi ấy trong bài thơ nhận được nhiều sự đồng cảm dâng trào, sẻ chia của bạn đọc. Trong những cung bậc nhân thế ấy, ta thực sự trân trọng một tài hoa, một tâm hồn như nhà thơ Huy Trụ. Và anh nổi tiếng một thời về bài thơ "Sông Mã", của Xứ Thanh: "Một tiếng "huầy dô" xô con đò dọc/ Người trên bờ cũng ướt đẫm mồ hôi…/ Chả bao giờ sông bình lặng em ơi/ Cả những lúc lòng sông phơi trắng cát/ Không sóng chồm bờ thì sóng ngầm xoáy đất/ Đừng thấy trăng lên, lơ đễnh gác con sào…". 

Không dừng lại ở đó, Huy Trụ đúc kết và nâng lên chiều sâu triết luận: "Đã sống đất này, dám chấp nhận cùng nhau/ Một câu nói nửa rừng, nửa biển../ Đi hết lòng nhau để cùng đến bến/ Khúc sông sâu, bồi lở thường tình…/ Riêng một điều em nhận ở đất Thanh/ Cái giàu có ẩn trong từng con sóng/ Nên dòng sông trước khi ra biển rộng/ Hắt lên tay người, bão lũ với phù sa" (trích bài Sông Mã). 

Có thể nói, đây là bài thơ mang cảm hứng ngợi ca quê hương, đất nước, là sự khắc nghiệt của dòng sông, cũng như giá trị văn hóa rất riêng của người Thanh Hóa với nhiều chiêm cảm đời thường và dự cảm trước hiện thực của cuộc sống. Do đó, khi bài thơ vừa mới ra đời nó đã tạo được tiếng vang lớn trong cả nước cũng như trên trường quốc tế. Phải công nhận rằng: Sức lôi cuốn của bài Sông Mã cho đến tận bây giờ đọc lại vẫn dạt dào xúc cảm.

Sau thành công vang dội của bài thơ trên, Huy Trụ định nghĩa về thơ: "Thơ là rượu của thế gian/ Phải đâu nước lã rót tràn mời nhau/ Cho đời nhớ được một câu/ Bạc đầu người viết chắc đâu đã thành". Đó là sự nghiêm túc, trách nhiệm và ý thức xác lập cá tính, giọng điệu mà bất kỳ người viết nào cũng phải học hỏi. Cái tôi triết luận này không ngừng tái tạo, kiếm tìm những khoảnh khắc thăng hoa…

Mặt khác, chất triết lí thơ anh được cài cắm chủ yếu trên cái nền của hiện thực tinh thần, hiện thực cảm xúc, dẫu không đi sâu vào miền hư ảo, tâm linh, nhưng luôn mê hoặc người đọc, bởi những giây phút cuộn sóng, quẫy đạp của nỗi lòng. 

Có nhiều nhà lí luận phê bình đã viết, đọc thơ Huy Trụ mới biết anh là thi sĩ si tình, luôn soi rọi ngóc ngách tâm hồn, những dáng hình của người đẹp: "Ào xuống nước thả vai trần em tắm/ Thịt da nào sánh với thịt da em"… Khi thì viết: Em đẹp quá để ta thành ngơ ngẩn/ Cúc mùa thu vàng tím cả sang đông". 

Những câu thơ cứ đan xen những hình ảnh giữa ảo và thực thể hiện được một khúc ca buồn man mác. Và khi những câu thơ càng làm lay động lòng người khi nhà thơ run rẩy: Em đẹp quá để ta thành ngơ ngẩn/ Cúc mùa thu vàng tím cả sang đông". Những câu thơ cứ rung ngân như một bản thánh ca của tình yêu diệu vợi. Đó chính là những câu thơ khơi gợi và ám ảnh được neo giữ  trong lòng bạn đọc. Có lẽ vì thế, thơ anh làm cho người đọc luôn hòa nhập và cảm nhận.

Cũng phải thôi, một khi những xúc cảm chân thành được nảy nở từ trái tim của người thi sĩ thì việc lan tỏa, chạm đến bao trái tim là điều không có gì khó hiểu!

Trên một bình diện khác, Huy Trụ đã bước vào thi đàn bằng một tâm hồn đa sầu, đa cảm, và cái tôi ấy đã theo thi nhân trong chặng đường sáng tác thơ ca, khi cái tôi trong sáng, đắm say để  rồi, cứ thế ngân lên, bừng sáng thanh âm thành thực của con tim: "Nữa đời buộc nắng cho thơ/ Buộc trăng cho gió, buộc đò cho sông/ Buộc hương cho những cánh đồng/ Buộc em cho sợi tơ lòng ngổn ngang" (Gom nhặt mà yêu).

Nhìn chung, tập thơ "Buồn vui con chữ", Huy Trụ không quá đỗi ồn ào với những trải nghiệm mới mẻ của thi ca. Sự sáng tạo của anh nằm ở sự tự nhiên của cảm xúc, sự thôi thúc của cõi lòng. Mê đắm trong nguồn nội cảm ấy nên thơ anh da diết, cháy bỏng, gần gũi, bình dị, đời thường. Mỗi bài thơ của anh là một lát cắt, tâm trạng, suy tư. 

Thơ ca như một dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp cho cuộc sống tốt tươi. Đó cũng là mạch nguồn chảy dài suốt chăng đường thi ca mà Huy Trụ tôn thờ. Chúc cho anh tiếp tục gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trên con đường sáng tác thi ca của mình.                                                                                                                                         

Triều Nguyệt
Ý kiến của bạn
Bình luận
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam phấn đấu đạt 6 tỷ USD Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam phấn đấu đạt 6 tỷ USD

Dự kiến kim ngạch xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 2 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu nỗ lực khắc phục được những hạn chế, năm 2025, Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng này lên mức 4 tỷ USD và đạt 6 tỷ USD vào năm 2030.