Tỷ lệ sử dụng chứng nhận xuất xứ trong EVFTA gia tăng
Sử dụng chứng từ chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA đang tăng trưởng tích cực, thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức và năng lực tuân thủ quy tắc xuất xứ của doanh nghiệp Việt Nam.
Từ khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/8/2020 đến hết năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU đã có sự tăng trưởng vượt bậc, từ mức 17,9 tỷ USD lên đến 51,72 tỷ USD. Sự tăng trưởng này không chỉ thể hiện sức hấp dẫn của hàng hóa Việt Nam mà còn là minh chứng cho tác động mạnh mẽ của việc loại bỏ thuế quan.

Da giày là ngành có tỷ lệ sử dụng chứng từ chứng nhận xuất xứ gần như đạt mức tuyệt đối 100%.
Tương ứng với đà tăng trưởng chung, việc sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA cũng cho thấy chiều hướng vô cùng tích cực. Kim ngạch được cấp C/O tăng từ 2,66 tỷ USD tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực lên mức 18,13 tỷ USD vào cuối năm 2024.
Quan trọng hơn, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu có chứng từ chứng nhận xuất xứ đã tăng đáng kể, từ khoảng 14,8% lên mức 35,1%.
Tại tọa đàm “Tận dụng quy tắc xuất xứ trong EVFTA và ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng”, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương nhận định, rằng 35% là một con số khá tích cực, thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức và năng lực tuân thủ quy tắc xuất xứ của doanh nghiệp Việt Nam.
Tỷ lệ này đang có chiều hướng tiếp tục tăng. Tuy nhiên, tỉ lệ này có sự khác biệt giữa các ngành hàng. Nếu da giày đạt mức gần 100% kim ngạch xuất khẩu có chứng từ xuất xứ thì dệt may mới đạt hơn 30%. Ngoài ra, các thị trường có cảng biển như Đức, Hà Lan ghi nhận tỉ lệ sử dụng C/O cao hơn so với các nước nằm sâu trong nội địa EU.
Các chuyên gia cho rằng, dù tín hiệu tích cực nhưng thực tế việc thực thi EVFTA vẫn đối mặt với không ít thách thức; tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của EVFTA thời gian qua chưa đạt được như kỳ vọng, do còn có các mặt hàng chưa đáp ứng được các quy tắc xuất xứ của Hiệp định.
Hiện nay kinh tế thế giới diễn biến rất phức tạp, nhiều nước ban hành các chính sách thương mại mới. Trong đó có chính sách thuế đối ứng của Mỹ dự báo sẽ tác động tới dòng chảy xuất nhập khẩu. EVFTA cũng đang đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết FTA với nhiều đối tác khác, có thể làm tăng áp lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.
Để tháo gỡ khó khăn trên, bà Trịnh Thị Thu Hiền cho biết, Cục Xuất nhập khẩu đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ: Hoàn thiện cơ chế, chính sách minh bạch về xuất xứ hàng hóa; tăng cường tập huấn, đào tạo "cầm tay chỉ việc" cho doanh nghiệp; phối hợp với hải quan các nước nhập khẩu trong xác minh xuất xứ; cải cách thủ tục hành chính và tham vấn quy trình sản xuất trong đàm phán FTA.
Cục đặc biệt chú trọng việc giúp doanh nghiệp hiểu đúng và chủ động áp dụng quy tắc xuất xứ, bởi đây là yếu tố then chốt để tận dụng ưu đãi thuế quan.
Các diễn giả tại Tọa đàm cũng thống nhất rằng trong bối cảnh thuế đối ứng của Hoa Kỳ, việc chuyển hướng khai thác các thị trường FTA, nhất là EU, là hướng đi đúng đắn. Bà Phan Thị Thanh Xuân nhấn mạnh: Nếu không tận dụng nhanh lợi thế EVFTA, Việt Nam sẽ đánh mất cơ hội khi các đối thủ như Indonesia sớm ký FTA với EU. Doanh nghiệp phải tăng nội lực, Nhà nước cần hỗ trợ thủ tục, xúc tiến thương mại và giảm chi phí tuân thủ.
Từ góc nhìn thương vụ, ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán thương mại Việt Nam tại Hoa Kỳ, cho biết nhiều tập đoàn Hoa Kỳ vẫn khẳng định duy trì nhập khẩu hàng Việt, song doanh nghiệp trong nước cần đa dạng hóa thị trường, tận dụng triệt để các FTA như EVFTA, CPTPP, UAE… để phân tán rủi ro.
Quy tắc xuất xứ là sợi dây nối giữa chính sách và năng lực sản xuất thực tế. Nếu coi thuế đối ứng là thách thức thì FTA, đặc biệt là EVFTA, chính là cơ hội để doanh nghiệp chứng minh năng lực trên thị trường toàn cầu.
Minh An (t/h)
Trong vòng 5 năm tới, tỉnh Gia Lai sẽ dành trên 200.000 tỷ đồng để tập trung đầu tư hạ tầng nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, tỉnh tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo mọi điều kiện để phát triển, mở rộng các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.