Các ngân hàng từng bước dịch chuyển sang lĩnh vực xanh

Ngân hàng
04:03 PM 15/12/2025

Dù không trực tiếp phát thải, hệ thống ngân hàng lại là nguồn cung vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp gây ô nhiễm, đặc biệt tại các nền kinh tế đang phát triển. Vì vậy, để hướng tới tăng trưởng bền vững, các ngân hàng cần tái định vị vai trò, từng bước dịch chuyển dòng tín dụng sang các lĩnh vực xanh.

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến hết quý III/2025, dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng 742.800 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cuối năm 2024 và 5,5% so với quý II/2025. Tỷ trọng tín dụng xanh trong tổng dư nợ toàn nền kinh tế vẫn giữ quanh mức 4,3-4,4%. Mặc dù tỷ trọng này còn khiêm tốn so với quy mô tín dụng toàn ngành nhưng tốc độ tăng trưởng cho thấy nhu cầu vốn cho các dự án năng lượng tái tạo, nông nghiệp tuần hoàn, sản xuất sạch đang gia tăng mạnh. 

Các ngân hàng từng bước dịch chuyển sang lĩnh vực xanh- Ảnh 1.

Bên cạnh sự dịch chuyển của dòng vốn, các tổ chức tín dụng cũng dành sự quan tâm cho công tác giám sát tác động môi trường và xã hội của hoạt động cho vay. Đến hết quý III/2025, dư nợ được đánh giá rủi ro ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị Doanh nghiệp) đạt 3,84 triệu tỷ đồng, tương ứng khoảng 1,38 triệu món vay, tăng 6% so với cuối năm 2024.

Đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thiện khung chính sách phát triển ngân hàng xanh với Quyết định số 1663/QĐ-NHNN năm 2024, đặt trọng tâm vào quản lý rủi ro môi trường, xã hội và thúc đẩy áp dụng tiêu chuẩn đo lường phát thải theo thông lệ quốc tế. Đây là nền tảng quan trọng để các ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống đánh giá tín dụng xanh, mở rộng danh mục dự án đủ điều kiện.

Nhiều ngân hàng đã đi đầu trong phát hành trái phiếu xanh và xây dựng danh mục tín dụng ít phát thải. BIDV phát hành thành công hơn 104 triệu USD trái phiếu xanh theo chuẩn quốc tế; Vietcombank triển khai trái phiếu xanh 2.000 tỷ đồng vào cuối năm 2024; MB đặt mục tiêu trở thành ngân hàng trung hòa carbon vào năm 2030;... Những bước đi này góp phần khơi thông nguồn lực, bổ sung vốn dài hạn cho các dự án năng lượng tái tạo, hạ tầng phát thải thấp.

Trong nhóm ngân hàng tích cực triển khai “xanh hóa” hoạt động, SeABank là một thí dụ điển hình khi đồng thời thực hiện quản lý phát thải, tối ưu năng lượng, chuyển đổi số và lan tỏa thói quen xanh trong nội bộ. Theo đó, SeABank xác định rõ ba phạm vi phát thải carbon để theo dõi, đo lường và kiểm soát/giảm thiểu. Trong đó, các nguồn phát thải trực tiếp và gián tiếp từ tiêu thụ năng lượng được chú trọng xử lý thông qua việc áp dụng công trình xanh, hệ thống quản lý tòa nhà thông minh và quy trình tiết kiệm tài nguyên.

Việc “xanh hóa” hoạt động đang tạo nền tảng quan trọng để hệ thống ngân hàng chuyển mạnh sang cung ứng tài chính xanh trong giai đoạn 2025-2030. Bên cạnh những thành công bước đầu, các chuyên gia cho rằng vẫn còn nhiều thách thức lớn như: Thiếu khung phân loại dự án xanh thống nhất; rủi ro môi trường, xã hội cao khiến nhiều ngân hàng thận trọng và chi phí thẩm định dự án xanh chưa thấp như kỳ vọng.

Cùng với đó, việc thiếu đồng bộ giữa thể chế, chuẩn mực và năng lực cũng là một trong những rào cản khiến ngân hàng Việt Nam khó tiếp cận nguồn vốn xanh quốc tế.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà nhận định, quá trình chuyển dịch này phản ánh sự nâng cao nhận thức của tổ chức tín dụng về rủi ro môi trường, xã hội và yêu cầu phát triển bền vững. Tuy nhiên, để tạo động lực mở rộng dòng vốn, cần thực hiện đồng bộ hoàn thiện thể chế và tiêu chuẩn xanh quốc gia; chuẩn hóa báo cáo theo Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS), ESG và tăng năng lực giám sát tín dụng xanh.

Mặt khác, các ngân hàng cũng phải thay đổi cách tiếp cận theo hướng tín dụng xanh không chỉ là cho vay ít gây hại cho môi trường, mà phải trở thành chiến lược cốt lõi trong mô hình kinh doanh, gắn liền với mục tiêu phát thải ròng bằng 0 của quốc gia. Mỗi ngân hàng nên xem danh mục tín dụng như một bản đồ carbon, nơi từng khoản vay có dấu vết khí thải có thể đo lường được. Một dự án năng lượng tái tạo, giao thông sạch hay đô thị thông minh không chỉ mang lại lợi nhuận tài chính, mà còn tạo giá trị môi trường cụ thể, có thể định lượng và báo cáo theo chuẩn ESG.

Với sự hoàn thiện dần của hành lang pháp lý và cam kết từ các tổ chức tín dụng, dòng vốn xanh được kỳ vọng sẽ mở rộng, hỗ trợ các lĩnh vực ưu tiên như năng lượng tái tạo, hạ tầng bền vững, kinh tế tuần hoàn. Quá trình “xanh hóa” ngành ngân hàng vì vậy không chỉ là thay đổi về kỹ thuật hay vận hành, mà là một bước chuyển dài hạn hướng tới mô hình tài chính bền vững, góp phần thực hiện cam kết Net-Zero vào năm 2050 của Việt Nam và xây dựng nền kinh tế phát triển hài hòa giữa tăng trưởng và bảo vệ môi trường.

Minh An (t/h)
Ý kiến của bạn
Bình luận